Tóm tắt:
Đến nay, các khu kinh tế ven biển ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã trải qua khoảng thời gian phát triển từ 15-22 năm. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhưng quá trình hình thành và phát triển của các khu kinh tế ven biển này cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường. Dựa trên phân tích các nguồn thông tin, tài liệu thứ cấp, bài viết này làm rõ một số vấn đề về môi trường dưới tác động của phát triển các khu kinh tế ven biển ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, đó là: (1) Sự gia tăng khối lượng phát sinh chất thải rắn; (2) Sự suy giảm chất lượng môi trường nước mặt lục địa ven biển và nước biển ven bờ; 3) Sự suy giảm chất lượng môi trường không khí và đất; 4) Sự suy thoái cảnh quan và đa dạng sinh học; 5) Sự gia tăng xói lở bờ biển và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Từ khóa: phát triển, khu kinh tế ven biển, môi trường, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
1. Đặt vấn đề
Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Quy hoạch các khu kinh tế ven biển Việt Nam đến năm 2020” theo Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008. Đến năm 2020, quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển tiếp tục được điều chỉnh và bổ sung tại Quyết định số 1453/QĐ-TTg ngày 24/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy hoạch này, khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung sẽ có 11 khu kinh tế ven biển, bao gồm: Nghi Sơn, Đông Nam Nghệ An, Vũng Áng, Hòn La, Đông Nam Quảng Trị, Chân Mây - Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nam Phú Yên và Vân Phong. Cho đến nay, cả 11 khu kinh tế ven biển này đã được thành lập, chiếm 61% tổng số khu kinh tế ven biển của cả nước.
Đến nay, các khu kinh tế ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã phần nào khẳng định vai trò trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ven biển cũng như toàn vùng. Trong số đó, Dung Quất, Vũng Áng, Chu Lai và Nghi Sơn là 4 khu kinh tế có sự phát triển nổi bật hơn cả. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, song sự phát triển của các khu kinh tế ven biển trong vùng vẫn còn nhiều hạn chế: tiến độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng chậm, tỷ lệ dự án đầu tư đăng ký và lấp đầy nhìn chung thấp và mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo định hướng trong quy hoạch hệ thống khu kinh tế ven biển của Nhà nước vẫn chưa đạt như kỳ vọng.
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu, song trong “cuộc đua” thu hút đầu tư vào các khu kinh tế ven biển của các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung nói riêng, cũng như của cả nước nói chung, vẫn tồn tại tình trạng “một số dự án có tiêu chuẩn công nghệ và môi trường thấp được phê duyệt” (Nguyễn Chu Hồi, 2021). Thực tế này đã gây ra những tác động đáng kể đến môi trường trong thời gian qua, làm phát sinh nhiều vấn đề suy thoái môi trường. Ở chiều ngược lại, chính tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường lại trở thành thách thức lớn đối với nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển, bởi các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, từ đó tác động tiêu cực đến mục tiêu phát triển kinh tế biển theo hướng “bền vững” của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, cũng như của Việt Nam.
2. Tổng quan về các khu kinh tế ven biển ở miền Trung
Theo Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008, các khu kinh tế ven biển ở Việt Nam được thành lập với kỳ vọng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế chung, đặc biệt là đối với các vùng ven biển nghèo, đồng thời tạo nền tảng để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong quy hoạch hệ thống khu kinh tế ven biển, các khu ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung được định hướng phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung vào 3 nhóm chính: (1) Phát triển hệ thống cảng biển, bao gồm cảng nước sâu trung chuyển quốc tế và cảng chuyên dụng gắn liền với các khu liên hợp công nghiệp, dầu khí, năng lượng tái tạo và công nghiệp sạch; (2) Hình thành các trung tâm du lịch lớn; (3) Đẩy mạnh nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản cùng với phát triển dịch vụ hậu cần và hạ tầng nghề cá (Nguyễn Việt Dũng & Bùi Thị Hồng Hiếu, 2021).
Cho đến nay, các khu kinh tế ven biển của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, trong đó có những dự án tiêu biểu như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Khu công nghiệp cơ khí ô tô Chu Lai - Trường Hải, Tổ hợp công nghiệp Formosa Hà Tĩnh, Nhà máy công nghiệp nặng Doosan Việt Nam,… Nhờ đó, các khu kinh tế ven biển của vùng đã bước đầu trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập trực tiếp cũng như gián tiếp cho hàng triệu lao động địa phương, nổi bật nhất là tại khu kinh tế ven biển Dung Quất và Vũng Áng. Theo Vũ Tuấn Vinh (2021), cả 2 khu này đều có mức đóng góp ngân sách địa phương trên 80%. Bên cạnh đó, Khu kinh tế Nghi Sơn và Chu Lai cũng đạt được kết quả phát triển khả quan, với tỷ lệ đóng góp ngân sách ở mức khá cao; riêng khu kinh tế ven biển Chu Lai đóng góp bình quân khoảng 65%/năm vào ngân sách tỉnh Quảng Nam (Phan Việt Cường, 2021).
Sự phát triển của các khu kinh tế ven biển còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa trong vùng. Theo Hà Khánh (2022), tốc độ đô thị hóa của Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung hiện vào khoảng 1,2%/năm, cao hơn mức trung bình của cả nước, phản ánh rõ nét vai trò tích cực của các khu kinh tế ven biển đối với tiến trình đô thị hóa miền Trung. Đồng thời, sự hình thành và phát triển các khu kinh tế ven biển đã thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, từ nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy vậy, ngoại trừ một số khu kinh tế gắn với các dự án trọng điểm quốc gia như Dung Quất và Vũng Áng, nhìn chung các khu kinh tế ven biển ở Việt Nam (bao gồm cả vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung) vẫn còn hạn chế: mức đóng góp ngân sách địa phương chỉ đạt 5-7%, khả năng tạo việc làm chưa cao và hiệu suất thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là FDI còn thấp, trung bình chỉ khoảng 0,056 triệu USD/ha (Vũ Tuấn Vinh, 2021).
3. Một số vấn đề môi trường dưới tác động của quá trình phát triển các khu kinh tế ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
3.1. Sự gia tăng phát sinh chất thải rắn
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp (KCN) và cụm công nghiệp (CCN) trong và ngoài các khu kinh tế ven biển đã kéo theo sự gia tăng đáng kể lượng chất thải rắn công nghiệp (CTRCN) tại các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, đặc biệt ở một số tỉnh như Hà Tĩnh cũ và Quảng Ngãi cũ. Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, khối lượng CTRCN phát sinh tại Hà Tĩnh cũ khoảng 10.959 tấn/ngày, còn tại Quảng Ngãi cũ là 98 tấn/ngày (Bộ TN&MT, 2020, tr.40). Riêng tại Khu kinh tế Vân Phong, lượng CTRCN phát sinh hàng ngày cũng khá lớn, vào khoảng 54,7 tấn/ngày (Sở TN&MT Khánh Hòa, 2020, tr.266-267). Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội trong các khu kinh tế ven biển, lượng CTRSH cũng có xu hướng gia tăng nhanh theo thời gian. Hiện chưa có số liệu thống kê đầy đủ về CTRSH tại các khu kinh tế ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, song có thể khẳng định tốc độ phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa, sự gia tăng dân số và di cư đến các khu này chắc chắn đã và đang làm khối lượng CTRSH tăng lên đáng kể.
Trong khoảng 20 năm qua, khối lượng chất thải rắn phát sinh ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, đặc biệt tại các khu kinh tế ven biển đã gia tăng mạnh mẽ, gây áp lực lớn lên hệ thống hạ tầng thu gom - xử lý, cũng như công tác quản lý chất thải tại các địa phương. Mặc dù chính quyền các tỉnh trong vùng đã có nhiều nỗ lực trong việc thu gom và xử lý chất thải, song đến nay cơ sở hạ tầng hiện có vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hệ quả là tỷ lệ thu gom chất thải còn thấp, nhất là ở khu vực nông thôn.
Về xử lý chất thải rắn, phần lớn các địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung hiện vẫn chưa có nhà máy áp dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường; phương thức xử lý chủ yếu vẫn là chôn lấp tại các bãi rác. Theo Báo cáo đánh giá công tác bảo vệ môi trường năm 2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhiều địa phương trong vùng có tỷ lệ bãi chôn lấp hợp vệ sinh dưới 50%, điển hình như: Bình Thuận 6,67%, Phú Yên 18,18%, Khánh Hòa 37,5%, Quảng Ngãi 45,83% (theo địa giới hành chính cũ). Thực trạng này cho thấy nhiều bãi chôn lấp trong khu vực đang tiềm ẩn nguy cơ cao gây ô nhiễm đất, nước và không khí.
3.2. Sự suy giảm chất lượng môi trường nước
Chất lượng nước mặt tại 4 lưu vực sông lớn ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung nhìn chung vẫn ở mức tương đối tốt. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều điểm quan trắc ghi nhận chất lượng nước kém, trong đó đáng lo ngại nhất là lưu vực sông Mã, nơi có tới 62% số điểm quan trắc cho thấy chất lượng nước thấp (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020, tr.53). Nguồn nước sông Mã chịu tác động đáng kể từ nước thải sinh hoạt và sản xuất tại tỉnh Thanh Hóa (theo địa giới hành chính cũ), đặc biệt do sự hình thành và phát triển của khu kinh tế ven biển Nghi Sơn. Tại khu kinh tế này, nhiều trường hợp xả thải không đúng quy định đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nước sông, hồ trong khu vực. Ví dụ, cuối năm 2022, Nhà máy Giấy thuộc Công ty TNHH Miza Nghi Sơn đã xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,5 đến dưới 3 lần, với khối lượng từ 1.400-1.600 m³/ngày (24 giờ), đồng thời xả thải không đúng vị trí quy định trong giấy phép môi trường do cơ quan chức năng cấp (Bằng An, 2022).
Các khu kinh tế ven biển ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là nơi tập trung đông dân cư, hoạt động sản xuất - kinh doanh và phát triển công nghiệp, do đó các sông, hồ tại khu vực này phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải từ sinh hoạt cũng như từ các cơ sở sản xuất, công nghiệp. Tuy nhiên, tại nhiều khu kinh tế ven biển, hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung chưa được đầu tư đồng bộ, đặc biệt trong những giai đoạn đầu hình thành và phát triển, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nước mặt lục địa ven biển và nước biển ven bờ ở nhiều vị trí. Chẳng hạn, KCN Nam Cấm thuộc khu kinh tế ven biển Đông Nam Nghệ An được thành lập từ năm 2005, nhưng phải đến 10 năm sau mới có trạm xử lý nước thải tập trung được đầu tư và đưa vào vận hành. Trong khoảng thời gian này, nước thải từ nhiều nhà máy trong KCN đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường nước mặt. Theo Thiện Thành (2020), Nhà máy sản xuất bột cá của Công ty Cổ phần Thái Sơn tại KCN Nam Cấm đã nhiều năm xả thải gây ô nhiễm nguồn nước và không phải là trường hợp cá biệt, bởi còn nhiều cơ sở khác trong KCN cũng gây ra tình trạng tương tự. Ngay cả khi trạm xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động, vẫn xảy ra tình trạng lén xả thải chưa qua xử lý ra môi trường. Ô nhiễm nước mặt tại khu kinh tế ven biển Đông Nam Nghệ An không phải là hiện tượng riêng lẻ mà cũng phổ biến tại nhiều khu kinh tế ven biển khác trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
3.3. Sự suy giảm chất lượng môi trường không khí và đất
Bên cạnh ô nhiễm nguồn nước, tình trạng ô nhiễm không khí tại các khu kinh tế ven biển ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung cũng diễn ra phổ biến, chủ yếu bắt nguồn từ hoạt động xây dựng hạ tầng, vận hành các nhà máy, cơ sở sản xuất và làng nghề trong khu vực. Các dạng ô nhiễm thường gặp là bụi lơ lửng (TSP), bụi mịn và tiếng ồn, đặc biệt ở những đô thị và khu công nghiệp có mật độ xe tải vận chuyển đất, cát, vật liệu xây dựng cao cũng như nhiều công trình xây dựng đang thi công.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Quảng Nam năm 2021 (theo địa giới hành chính cũ), tại thị trấn Núi Thành (Khu kinh tế Chu Lai), nồng độ bụi lơ lửng (TSP) vượt quy chuẩn quốc gia QCVN 05:2013/BTNMT tới 33%. Đối với bụi mịn, mặc dù chưa có số liệu quan trắc cụ thể, song thống kê cho thấy loại bụi này chiếm khoảng 26% tổng lượng bụi công nghiệp phát sinh (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam, 2021, tr.57-58). Tại Khu kinh tế Dung Quất, tình trạng ô nhiễm bụi cũng thường xuyên xảy ra. Hà Phương (2022) ghi nhận, mật độ xe tải chở đất, đá phục vụ công trình xây dựng quá cao đã gây bụi nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, khiến nhiều hộ kinh doanh phải ngừng hoạt động, thậm chí có gia đình buộc phải cho con em về quê để tránh tác hại tới sức khỏe.
Ngoài ra, theo Báo cáo hiện trạng bụi mịn tại hội thảo “Hiện trạng bụi PM2.5 ở Việt Nam giai đoạn 2019-2020 và Ứng dụng dữ liệu vệ tinh trong giám sát ô nhiễm và nghiên cứu”, mặc dù chưa có tỉnh, thành nào ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm vượt quy chuẩn quốc gia, nhưng nếu so sánh với ngưỡng khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nồng độ bụi tại tất cả các tỉnh, thành trong giai đoạn 2019-2020 đều cao hơn nhiều lần, gây hại đáng kể cho sức khỏe cộng đồng. Có thể thấy, sự gia tăng nồng độ bụi trong không khí tại khu vực này có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình hình thành và phát triển các khu kinh tế ven biển.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2020, chất lượng môi trường đất tại các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung nhìn chung còn khá tốt. Tuy nhiên, đất nông nghiệp ở một số khu vực lân cận các cụm, cơ sở sản xuất công nghiệp, khu dân cư tập trung và làng nghề đã bắt đầu có dấu hiệu suy thoái do chịu tác động từ chất thải của các hoạt động này (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020, tr.101). Đặc biệt, tại vùng ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, trong đó có các khu kinh tế ven biển, tập trung đông dân cư và diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động, cũng đồng thời là khu vực chịu áp lực lớn về ô nhiễm đất. Tại một số vùng sản xuất nông nghiệp, tình trạng ô nhiễm đất đã xuất hiện do việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng và phân bón hóa học vượt quá liều lượng cho phép, dẫn đến tồn dư hóa chất trong đất.
3.4. Sự suy thoái cảnh quan và đa dạng sinh học
Quá trình hình thành và phát triển khu kinh tế ven biển ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung trong thời gian qua đã làm thay đổi đáng kể diện mạo cảnh quan, đồng thời kéo theo sự suy giảm đa dạng sinh học ở nhiều khu vực. Việc sử dụng đất để xây dựng đô thị, KCN, cơ sở sản xuất và kinh doanh trong các khu kinh tế ven biển đã làm diện tích cây xanh, mặt nước ngày càng thu hẹp, dẫn đến biến đổi địa hình và cảnh quan tự nhiên. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường - đặc biệt là ô nhiễm nước do chất thải phát sinh từ hoạt động kinh tế và đô thị hóa - đã khiến các hệ sinh thái ven biển và biển gần bờ suy thoái rõ rệt, đa dạng sinh học suy giảm, thậm chí nhiều khu vực đã rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Sự hình thành và phát triển của khu kinh tế ven biển Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa (theo địa giới hành chính cũ) đã tạo áp lực lớn đối với môi trường và tài nguyên đa dạng sinh học tại khu vực này. Theo Dư Văn Toán (2018), vịnh Vân Phong vốn là một trong những vùng có tiềm năng đa dạng sinh học cao với hệ sinh thái phong phú như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và nhiều loài hải sản. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường đã khiến các rạn san hô ở đây suy giảm nghiêm trọng, phần lớn không còn duy trì được trạng thái tốt, thậm chí nhiều rạn chỉ còn độ phủ dưới 10%. Nguyên nhân của sự suy thoái này bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó có khai thác hải sản quá mức, các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt, cùng với sự lắng đọng trầm tích từ chất thải, từ các đầm nuôi tôm và hoạt động kinh tế ven bờ phát tán ra môi trường (Dư Văn Toán, 2018).
Sự cố môi trường năm 2016 do Công ty Formosa gây ra tại Khu kinh tế Vũng Áng đã khiến các hệ sinh thái biển ở tỉnh Hà Tĩnh cũ và nhiều địa phương lân cận suy giảm nghiêm trọng. Theo Dương Đình Trường và Công Điền (2023), sự cố này không chỉ làm hải sản chết hàng loạt mà còn tàn phá các rạn san hô, với khoảng 90% diện tích ở khu vực đầu nguồn thải bị hủy diệt và khoảng 60% ở khu vực Bãi Cả, Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế) bị chết. Đáng lo ngại, ngay cả sau 7 năm, nhiều rạn san hô vẫn chưa thể phục hồi. Rạn san hô vốn là hệ sinh thái đặc biệt quan trọng, cung cấp nguồn lợi hải sản phong phú cho vùng biển Hà Tĩnh và các tỉnh lân cận, nhưng nay đã mất đi khả năng tái tạo như trước. Điều này cho thấy tác động từ sự cố môi trường Formosa đối với hệ sinh thái biển là vô cùng nghiêm trọng và kéo dài. Thực tế suy giảm hệ sinh thái ở Khu kinh tế Vân Phong và Khu kinh tế Vũng Áng chỉ là những ví dụ điển hình trong số nhiều trường hợp tương tự tại các khu kinh tế ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
3.5. Sự gia tăng xói lở bờ biển và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi bão ở Việt Nam, chiếm khoảng 65% tổng số bão đổ bộ cả nước, đồng thời cũng thường xuyên xảy ra lũ lụt (Nguyễn Ngọc Khánh, 2012). Biến đổi khí hậu đã làm gia tăng tần suất, cường độ và mức độ tác động của bão, áp thấp nhiệt đới đến khu vực này. Ngoài ra, lũ lụt, lũ quét vẫn diễn ra thường xuyên, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản. Bên cạnh đó, vùng còn chịu ảnh hưởng đáng kể từ nắng nóng, hạn hán và xâm nhập mặn - những hệ quả trực tiếp của biến đổi khí hậu.
Sự phát triển của các khu kinh tế ven biển khiến các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung ngày càng dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Việc khai thác titan, xây dựng hạ tầng giao thông và các nhà máy trong khu kinh tế ven biển đã làm thay đổi địa hình bờ biển, gia tăng nguy cơ xói lở và xâm nhập mặn. Riêng khu vực từ Quảng Nam cũ đến Phú Yên cũ đã có tới 492 km bờ biển bị xói lở (Nguyễn Thanh Thảo, 2023). Mực nước sông giảm sâu khiến độ mặn sông Thu Bồn lên tới 21‰, cao gấp 12-13 lần mức cho phép vào năm 2023 dẫn đến nhiều trạm bơm phải ngừng hoạt động, nước mặn xâm nhập đồng ruộng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Thanh Thảo, 2023). Ngoài bão, lũ lụt và sạt lở bờ biển, hạn hán cũng là thách thức nghiêm trọng, đặc biệt tại 3 tỉnh Nam Trung Bộ là Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, nơi mỗi năm có hàng nghìn ha đất bị thoái hóa và mất khả năng canh tác (Nguyễn Ngọc Khánh, 2012).
4. Kết luận và một số hàm ý chính sách
Quá trình hình thành và phát triển các khu kinh tế ven biển tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã phát sinh nhiều vấn đề môi trường như: (1) gia tăng khối lượng chất thải rắn; (2) suy giảm chất lượng môi trường nước; (3) suy thoái môi trường không khí và đất; (4) tác động tiêu cực đến cảnh quan và đa dạng sinh học; (5) gia tăng tình trạng xói lở bờ biển và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường mà còn trở thành thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội của các khu kinh tế ven biển. Hiện nay, ngoại trừ 4 khu kinh tế nổi bật là Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai và Dung Quất, sự phát triển của các khu kinh tế ven biển trong vùng vẫn còn hạn chế. Vì vậy, việc đẩy mạnh thu hút đầu tư, đặc biệt là vốn FDI, là yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, chính quyền địa phương cần thận trọng trong sàng lọc dự án, ưu tiên các ngành công nghệ cao, thân thiện với môi trường để hạn chế rủi ro và hệ lụy tiêu cực. Đồng thời, cần triển khai các giải pháp phòng ngừa, kiểm soát và xử lý hiệu quả các vấn đề môi trường phát sinh từ hoạt động kinh tế - xã hội, hướng đến phát triển bền vững theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các địa phương cũng cần thiết lập cơ chế hợp tác liên vùng nhằm quản lý và xử lý những vấn đề môi trường mang tính xuyên biên giới như ô nhiễm nước mặt, nước biển và không khí.
Tài liệu tham khảo:
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020). Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2020.
Dư Văn Toán (2018). Hệ sinh thái san hô vịnh Vân Phong và các giải pháp bảo vệ môi trưởng biển. Tạp chí Môi trường số 5.
Dương Đình Trường và Công Điền (2023). Biển miền Trung còn lại gì sau hơn 7 năm sự cố Formosa?. Báo Nông nghiệp. Truy cập tại https://nongnghiep.vn/bai-3-bien-mien-trung-con-lai-gi-sau-hon-7-nam-su-co-formosa-d352391.html
Hà Khánh (2022). Quy hoạch và phát triển đô thị bền vững vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Báo Chính phủ điện tử. Truy cập tại https://baochinhphu.vn/quy-hoach-va-phat-trien-do-thi-ben-vung-vung-bac-trung-bo-va-duyen-hai-mien-trung-102230714151243673.htm
Hà Phương (2022). Quảng Ngãi: Ám ảnh ô nhiễm bụi ở Khu kinh tế Dung Quất. Báo Kinh tế đô thị. Truy cập tại https://kinhtedothi.vn/quang-ngai-am-anh-o-nhiem-bui-o-khu-kinh-te-dung-quat.html
Nguyễn Chu Hồi (2021). Triển vọng phát triển của mô hình Khu kinh tế ven biển trong bối cảnh Việt Nam và thế giới. Tạp chí Quy hoạch xây dựng, số 111.
Nguyễn Thanh Hảo (2023). Phát triển bền vững kinh tế vùng Duyên hải miền Trung thích ứng với biến đổi khí hậu. Tạp chí Cộng sản, truy cập tại https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/828711/view_content
Nguyễn Việt Dũng và Bùi Thị Hồng Hiếu (2021). Bảo vệ môi trường trong phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam. Tạp chí Quy hoạch xây dựng, số 111.
Phan Việt Cường (2021). Sức bật từ khu kinh tế ven biển. Báo Nhân dân điện tử. Truy cập tại https://nhandan.vn/suc-bat-tu-khu-kinh-te-ven-bien-post651360.html
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà (2020). Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Khánh Hoà giai đoạn 2016-2020.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam (2022). Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Quảng Nam năm 2021.
Thiện Thành (2020). Ô nhiễm ở Khu kinh tế Đông Nam. Truy cập tại http://congan.nghean.gov.vn/phap-luat/202005/o-nhiem-moi-truong-o-khu-kinh-te-dong-nam-900197/
Bằng An (2022). Bộ Tài nguyên và Môi trường xử phạt Công ty TNHH Miza Nghi Sơn hơn 550 triệu đồng. Tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập tại https://dangcongsan.vn/phap-luat/xa-thai-ra-moi-truong-miza-nghi-son-bi-xu-phat-tren-550-trieu-dong-627924.html
Trần Kiên (2023). Lực đẩy tăng trưởng từ trung tâm kinh tế động lực Nghi Sơn. Báo Đấu thầu. Truy cập tại https://baodauthau.vn/luc-day-tang-truong-tu-trung-tam-kinh-te-dong-luc-nghi-son-post139601.html
Vũ Tuấn Vinh (2021). Tổng quan và một số vấn đề quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam. Tạp chí Quy hoạch xây dựng số, 111.
Environmental issues in the development of coastal economic zones in Vietnam’s North Central and Central Coast regions
Vu Thi Ngoc
Institute of Social Sciences for the Central and Central Highlands Regions
Abstract:
Over the past 15–22 years, coastal economic zones in Vietnam’s North Central and Central Coast regions have experienced significant development. While these zones have contributed to regional economic growth and structural transformation, their expansion has also led to a range of environmental challenges. Based on the analysis of secondary data and relevant literature, this study identifies and clarifies key environmental issues arising from the development of coastal economic zones in the region, including: (1) increasing volumes of solid waste; (2) declining quality of coastal surface water and seawater; (3) deterioration of air and soil quality; (4) degradation of natural landscapes and biodiversity; and (5) accelerated coastal erosion and heightened vulnerability to climate change. The findings provide a scientific basis for proposing more sustainable strategies for managing and mitigating the environmental impacts of coastal economic development.
Keywords: development, coastal economic zones, environment, North Central and Central Coast regions.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 28 năm 2025]