Lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển công nghiệp trên cơ sở tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nhóm ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh như chế biến nông - lâm - thuỷ hải sản, may mặc, giày dép, cơ khí đóng tàu, chế tạo chi tiết lắp ráp cơ điện tử, xe máy, đồ gỗ. Ưu tiên thoả đáng cho việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất để góp phần bảo đảm khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế; thúc đẩy phát triển một cách chọn lọc các ngành công nghiệp có tiềm năng, các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao và công nghiệp quốc phòng. Có cơ chế, chính sách phát triển các vùng nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến. Phát triển công nghiệp đồng thời đảm bảo thực hiện hài hoà các yêu cầu của phát triển bền vững”. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập và đi kèm với nó là sự phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Mỗi quốc gia đều đóng vai trò như một mắt xích của hệ thống kinh tế toàn cầu. Do vậy, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, gắn kết các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó và với điều kiện nguồn lực hạn chế không thể dàn trải cho tất cả các ngành, việc xác định các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn để tập trung khuyến khích phát triển là hết sức cần thiết và cấp bách. Vấn đề đặt ra là: Ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn được hiểu như thế nào? Định hướng phát triển các ngành công nghiệp này ra sao?
2. Quan điểm về ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn
Căn cứ trên một số quan điểm của các nhà khoa học và nhà nghiên cứu kinh tế chúng tôi đề xuất các quan điểm xác định ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn để từ đó có thể chọn lựa được các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn nhằm khuyến khích phát triển, như sau:
- Ngành công nghiệp ưu tiên là ngành công nghiệp được tập trung đầu tư phát triển trong từng thời kỳ nhất định nhằm giải quyết một hoặc một số yêu cầu cấp thiết của những thời kỳ này.
- Ngành công nghiệp mũi nhọn là ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, có giá trị cao, tỷ trọng đáng kể và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân trong một tương lai không xa và tạo động lực phát triển cho các ngành khác.
Trên cơ sở các quan điểm đã nêu, các tiêu chí lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên và ngành công nghiệp mũi nhọn được xác định như sau:
- Ngành công nghiệp ưu tiên là ngành công nghiệp thuộc một trong hai nhóm sau đây:
- Nhóm I: Là ngành công nghiệp:
+ Đang có lợi thế cạnh tranh.
+ Đang có thị trường.
+ Đang có giá trị xuất khẩu lớn.
+ Đang giải quyết nhiều lao động.
- Nhóm II: Là ngành công nghiệp cơ sở hạ tầng quan trọng.
- Ngành công nghiệp mũi nhọn là ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh động, có tiềm năng phát triển trong tương lai (Nhóm III: ngành công nghiệp tiềm năng).
Căn cứ vào Chiến lược phát triển công nghiệp cả nước và các tiêu chí xác định ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn trong giai đoạn như đã đề cập ở trên, danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn trong giai đoạn 2006 - 2010 được đề xuất gồm 08 ngành công nghiệp ưu tiên và 03 ngành công nghiệp mũi nhọn (xem Bảng 1).
Ghi chú :
Cạnh tranh : Đang có lợi thế cạnh tranh.
Thị trường : Đang có thị trường.
Xuất khẩu : Đang có giá trị xuất khẩu lớn.
Lao động : Đang giải quyết nhiều lao động.
CS hạ tầng : Ngành công nghiệp cơ sở hạ tầng quan trọng.
Tiềm năng : Ngành công nghiệp tiềm năng.
2. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đến năm 2020
2.1. Nhóm I (ngành đang có lợi thế cạnh tranh)
- Ngành công nghiệp Dệt - May, Da - Giày: Từ nay đến 2010 tiếp tục phát triển với tốc độ cao để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm; tăng nhanh hàm lượng sản xuất trong nước đối với các sản phẩm dệt may, giày dép. Sau năm 2010 phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, các sản phẩm may mặc, giày dép cao cấp, một số sản phẩm may mang đặc trưng văn hoá, hình ảnh Việt Nam (từ tơ lụa tự nhiên), đẩy mạnh thiết kế mẫu mốt; tham gia vào hệ thống phân phối toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
- Ngành Nhựa: ứng dụng công nghệ hiện đại, từng bước thay thế thiết bị hiện có bằng thiết bị tiên tiến, hiện đại của thế giới, đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng, an toàn, vệ sinh, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường để sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Tập trung đầu tư phát triển sản xuất nguyên liệu, sản xuất sản phẩm nhựa kỹ thuật cao và sản phẩm nhựa xuất khẩu, phát triển công nghiệp xử lý phế liệu, phế thải ngành nhựa.
- Tiểu thủ công nghiệp, đồ gỗ: Huy động nhân tài, vật lực của khu vực nông thôn, cùng sự hỗ trợ của Nhà nước về khoa học công nghệ, định hướng thị trường, phát triển sản xuất mọi loại sản phẩm có nhu cầu nhằm đáp ứng thị trường taị chỗ, mở rộng thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu. Xây dựng và phát triển một số ngành, sản phẩm như đỗ gỗ, sứ mỹ nghệ, khảm trai, lụa tơ tằm... trở thành ngành, sản phẩm có thương hiệu mạnh trên thị trường xuất khẩu. Hình thành các cụm, điểm công nghiệp, làng nghề để phát triển tiểu thủ công nghiệp và bảo vệ môi trường.
- Ngành chế biến nông, lâm, thủy hải sản: Phát triển ngành theo định hướng chế biến sâu, thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường trong nước, đồng thời hướng xuất khẩu tối đa. Hình thành một số thương hiệu sản phẩm mạnh đặc trưng của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ nay đến năm 2010 phát triển vùng nguyên liệu áp dụng các công nghệ cao, công nghệ sinh học, tự động hoá trong khâu thu hoạch, sơ chế và bảo quản sản phẩm. Sau năm 2010 cơ giới hoá trong toàn bộ khâu đánh bắt, nuôi trồng; phát triển mạng lưới phân phối chuyên nghiệp trên thị trường quốc tế; tạo giá trị thương hiệu cao cho sản phẩm của ngành.
2.2. Nhóm II (ngành công nghiệp cơ sở hạ tầng quan trọng)
- Ngành thép: Phát triển ngành luyện kim với công nghệ cao, công nghệ phù hợp với quy mô nguồn nguyên liệu để bảo đảm thoả mãn nhu cầu thép xây dựng, thép tấm lá và một phần thép hợp kim. Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào các dự án hạ nguồn, liên doanh các dự án thượng nguồn.
- Ngành khai thác, chế biến bauxit nhôm: Phát triển ngành dựa trên lợi thế về tài nguyên, có xét đến dự phòng chiến lược, theo hướng sử dụng công nghệ khai thác, chế biến tiến tiến, hiện đại, giảm tổn thất tài nguyên và tăng cường chế biến sâu để nâng cao giá trị khoáng sản. Từ nay đến 2010 tập trung tăng cường thăm dò nâng cấp trữ lượng các mỏ. Sau 2010 tập trung khai thác, chế biến; chỉ xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến và khi có hiệu quả. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh khai thác các mỏ có vốn đầu tư lớn
- Ngành hoá chất: Phát triển ngành hoá chất theo hướng khai thác lợi thế về nguyên liệu trong nước để thoả mãn nhu cầu các loại phân bón, một số hoá chất cơ bản, một số nguyên liệu hoá dược, một số nguyên liệu chất dẻo từ chế biến dầu thô. Phát triển ngành trên cơ sở sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, tạo sản phẩm chất lượng cao, hướng tới xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành. Hình thành các khu cụm công nghiệp sản xuất hoá chất chủ yếu ở phía Nam và đồng bằng sông Hồng. Từ nay đến năm 2010, tập trung phát triển hoá chất phục vụ nông nghiệp, xây dựng nhà máy lọc dầu. Sau năm 2010, phát triển một số hoá chất cơ bản (như soda, xút), các sản phẩm hoá dầu... Hình thành một số trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm nhà nước về hoá dược để chủ động nghiên cứu những loại dược liệu mới, tác dụng phòng chữa bệnh có hiệu quả, hạn chế tác dụng phụ và tình trạng kháng thuốc, phù hợp thể trạng con người và môi trường Việt Nam. Sản xuất có chọn lọc một số loại hoá mỹ phẩm có nguồn gốc thảo dược của Việt Nam phục vụ nhu cầu làm đẹp của nhân dân.
2.3. Nhóm III (ngành công nghiệp tiềm năng)
- Ngành cơ khí chế tạo: Phát triển ngành trở thành ngành nòng cốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với sự đầu tư tập trung của kinh tế nhà nước cùng với sự tổ chức, sắp xếp hợp lý để phát huy lợi thế của việc hợp tác hoá và chuyên môn hoá. Khuyến khích đầu tư nước ngoài tham gia phát triển ngành, thông qua chuyển giao công nghệ tiên tiến, cung cấp trang thiết bị hiện đại, có trình độ tự động hoá và cấp độ chính xác cao. Xây dựng một số trung tâm cơ khí lớn, bao gồm các nhà máy đúc, tạo phôi có quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu chế tạo thiết bị chuyên dùng, thiết bị đồng bộ của các ngành kinh tế, nhất là ngành giao thông, xây dựng, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp hoá chất, hoá dầu... để đáp ứng khoảng 70% nhu cầu các sản phẩm cơ khí nói chung vào năm 2020, riêng máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp đạt trên 80% nhu cầu trong nước. Lựa chọn và có chính sách đồng bộ, ổn định để phát triển một số chủng loại sản phẩm cơ khí trọng điểm có năng lực cạnh tranh cao, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước vừa tham gia xuất khẩu. Đầu tư mạnh cho một số viện nghiên cứu nâng cao năng lực thiết kế các sản phẩm cơ khí chính xác, sản phẩm sử dụng trong những lĩnh vực chịu tác động ăn mòn lớn, sản phẩm siêu trường, siêu trọng. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 tập trung hoàn thiện công nghệ gia công, lắp ráp cơ khí trong các ngành chủ lực như ô tô, đóng mới và sửa chữa tàu... Sau năm 2010, chuyển mạnh sang lĩnh vực cơ khí chế tạo.
- Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin: Phát triển ngành trên cơ sở ứng dụng công nghệ tiến tiến, hiện đại tầm khu vực và thế giới; chú trọng sản xuất linh kiện, phụ tùng. Hình thành một số trung tâm nghiên cứu thiết kế chuyên ngành để tạo ra công nghệ trong nước và sản phẩm đặc trưng của Việt Nam. Mở rộng thị trường cạnh tranh cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, trừ một số lĩnh vực liên quan tới an ninh, quốc phòng; trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân giữ vai trò chính trong phát triển ngành. Khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh về nguồn nhân lực, đội ngũ nghiên cứu khoa học - công nghệ của doanh nghiệp để phát triển ngành từ đa dạng sản phẩm tiến tới xác định sản phẩm mũi nhọn. Từng bước tin học hoá mọi hoạt động xã hội, loại trừ khoảng cách về không gian và thời gian, đưa nhịp sống công nghiệp trở thành nét văn minh xã hội Việt Nam.
- Sản phẩm từ công nghệ mới: Phát triển các sản phẩm từ công nghệ mới trên cơ sở chuyển giao kết hợp với sáng tạo công nghệ của Việt Nam với các nước có nền công nghiệp tiên tiến và sự chuẩn bị một cách tích cực, hiệu quả đội ngũ cán bộ công nghệ có trình độ cao, có đủ năng lực làm chủ công nghệ. Từ nay đến năm 2010, tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ này, đồng thời hình thành các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các trung tâm nghiên cứu thiết kế công nghệ để nghiên cứu phát triển công nghệ nội sinh cho một số ngành, đồng thời sử dụng có hiệu quả công nghệ chuyển giao theo hướng đi tắt, đón đầu để rút ngắn qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, nhất là nâng cao tính hiện đại của nền công nghiệp Việt Nam. Tạo dựng và phát triển các trung tâm thiết kế, sản xuất sản phẩm phần mềm, sản phẩm nội dung số có tầm cỡ khu vực. Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành trung tâm sản xuất và giao dịch phần mềm và nội dung số lớn của khu vực.
3. Dự báo tỷ trọng các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đến năm 2020
Nếu thực hiện tốt các định hướng phát triển nêu trên với những chính sách khuyến khích cụ thể của Nhà nước, các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn sẽ phát triển bền vững với tốc độ cao hơn so với các ngành công nghiệp khác. Từ các số liệu dự báo của các ngành, ta lập được bảng tổng hợp về tỷ trọng của các nhóm ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn như trên Bảng 2.
Từ bảng 2, có thể thấy rằng:
- Cả hai nhóm ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đều tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng bình quân toàn ngành Công nghiệp, nhưng nhóm ngành công nghiệp mũi nhọn tăng cao hơn so với nhóm ngành công nghiệp ưu tiên.
- Trong vòng 15 năm (từ 2005 đến 2020), tỷ trọng của các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn trong toàn ngành Công nghiệp tăng 14,51% (từ 61,36% lên 75,87%). Trong đó, nhóm ngành công nghiệp ưu tiên tăng 7,88% (từ 52,18% lên 60,06%) và nhóm ngành công nghiệp mũi nhọn tăng 6,64% (từ 9,18% lên 15,81%).