Nhận thức rõ vai trò quan trọng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, Đảng - Nhà nước đã có chính sách đầu tư rất lớn cho lĩnh vực này. Theo số liệu từ Bộ Giáo dục - Đào tạo, thì hiện nay, bình quân mỗi năm, mỗi trường đều được đầu tư từ 200 - 500 triệu đồng cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nhiều giải thưởng cũng đã được thành lập để trao cho những sinh viên có thành tích xuất sắc trong công tác nghiên cứu khoa học hàng năm. Chẳng hạn giải thưởng “ Sinh viên nghiên cứu khoa học” (thành lập năm 1990), giải thưởng “ Sáng tạo kĩ thuật Việt Nam - VIFOTEC” ( thành lập năm 1993), giải thưởng “ Trí tuệ Việt Nam”. Đây là những giải thưởng lớn do Bộ Giáo dục - Đào tạo, Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam phối hợp với nhiều tổ chức khác thành lập. Tuy thời gian ra đời chưa lâu, nhưng những giải thưởng này đã có tác dụng rất tích cực trong việc thúc đẩy và khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học trong đội ngũ sinh viên. Số lượng công trình, số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu và đoạt giải đều đặn tăng lên theo từng năm. Nếu như năm 1990 chỉ có 62 công trình nghiên cứu của 18 trường tham gia dự giải thì đến năm 2004 đã tăng lên 83 trường với 505 công trình. Số lượng công trình đạt giải cũng đã tăng từ 52 lên 476. Nhìn vào con số cụ thể đó, có thể thấy được rằng, nghiên cứu khoa học không còn mang tính chất phong trào như trước nữa, mà đã trở thành nhu cầu thực sự của nhiều sinh viên. Việc sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học không những góp phần tạo ra những sản phẩm tri thức thúc đẩy nền khoa học phát triển, mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường. Bên cạnh đó, còn giúp sinh viên chuyển từ phương pháp học tập bị động sang phương pháp học tập chủ động, biến quá trình được đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Đó là những yếu tố thuận lợi để sau khi tốt nghiệp, sinh viên sẽ dễ dàng hơn khi tiếp xúc với môi trường làm việc mới.
Từ khi sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học, đã có nhiều công trình được ứng dụng vào thực tế sản xuất và đã đem lại hiệu quả kinh tế xã hội tích cực. Chẳng hạn, công trình nghiên cứu tổng hợp zeolit của sinh viên Đỗ Đức Hải ( Đại học Bách Khoa - Hà Nội, đạt giải nhất năm 2002) đã được ứng dụng tại nhiều nhà máy để bảo vệ môi trường như: nhà máy xử lí khí Dinh Cố, nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nghi Sơn. Đề tài đạt giải khuyến khích của Phạm Xuân Dương ( Đại học Hàng Hải - 1994) đã được ứng dụng để cải hoán hệ thống nhiên liệu nhẹ sang sử dụng nhiên liệu nặng. Còn đề tài của sinh viên Phan Thanh Thảo ( Đại học Bách Khoa - Hà Nội) thì lại được Công ty Dệt - May Hà Nội sử dụng để cải tiến kĩ thuật cho quá trình sản xuất.
Để đưa khoa học vào cuộc sống, tại nhiều hội chợ triển lãm về công nghiệp và kĩ thuật hàng năm, nhiều trường đã đem các dây chuyền sản xuất, các sản phẩm nghiên cứu ra trưng bày quảng bá, giới thiệu. Thông qua đó tìm kiếm đối tác cho các tác giả. Những trường thường có sản phẩm trưng bày như: Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; Đại học Bách Khoa Hà Nội và Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh; Đại học Mỏ - Địa chất; Đại học Giao thông Vận tải… Nhiều công trình khi đem ra chào hàng đã được đối tác là các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, các trung tâm nghiên cứu ( kể cả nước ngoài) chú ý và đánh giá cao. Tại hội chợ công nghệ và thiết bị TECMART - Hà Nội năm 2003, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội có 20 trên tổng số 50 sản phẩm khoa học công nghệ đã được kí hợp đồng trực tiếp với tổng trị giá trên 3 tỉ đồng. Đặc biệt, trong năm nay, sự kiện nhóm sinh viên Trường Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh chế tạo thành công và đưa vào thử nghiệm loại máy bán hàng tự động lại càng chứng tỏ tài năng, trí tuệ của đội ngũ sinh viên Việt Nam.
4.069 công trình nghiên cứu (trong đó có 3.004 công trình đạt giải) từ 1990 đến nay không phải là một con số nhỏ. Đó là kho tri thức lớn có thể khai thác để phục vụ cuộc sống, phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, chúng ta nhận thấy rằng, số lượng công trình được đưa vào ứng dụng còn ít. Nhiều công trình sau khi hoàn tất phải nằm lại trên giấy tờ một cách vô ích. Sự lãng phí chất xám đó không tương xứng với công sức, tiền của và trí tuệ mà đội ngũ sinh viên đã bỏ ra. GS. TS Bùi Quốc Khánh (Đại học Bách Khoa - Hà Nội) cho rằng: từ công trình nghiên cứu đến sản phẩm là cả một chặng đường. Bởi vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, phần lớn các công trình khi nghiên cứu xong chỉ dừng lại ở việc công bố trên các tạp chí, các hội thảo khoa học. Ngay như Đại học Bách Khoa Hà Nội - cơ sở nghiên cứu thiên về ứng dụng thì tỉ lệ công trình được đưa vào thực tế cũng không nhiều. Vậy, đâu là nguyên nhân của tình trạng này?
Trước hết, phải khẳng định rằng, Nhà nước chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong việc định hướng cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nhiều đề tài, dự án vẫn được đầu tư một cách dàn trải và lãng phí. Nhiều công trình nghiên cứu không gắn với điều kiện thực tế, nên dù đạt giải cũng khó có cơ hội triển khai ứng dụng.
Thứ hai, mặc dù những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm đầu tư nhiều hơn cho công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên như: cấp kinh phí để xây dựng các phòng thí nghiệm, mua sắm các trang thiết bị... nhưng kinh phí đầu tư vẫn còn hạn hẹp và thiếu đồng bộ. Tại nhiều trường hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác nghiên cứu vẫn còn thiếu thốn và lạc hậu.
Thứ ba, hiện nay ở nước ta chưa có được một thị trường khoa học công nghệ đủ để tạo môi trường giao lưu giữa các sinh viên với các nhà đầu tư. Trong khi đó, nhiều trường lại không chủ động, tích cực trong việc hỗ trợ sinh viên tìm đầu ra cho sản phẩm của họ.
Thứ tư, nhiều nhà máy, xí nghiệp, nhiều cơ sở sản xuất chưa thực sự năng động trong việc tìm kiếm thông tin về các sản phẩm, các giải pháp kĩ thuật hay các dây chuyền công nghệ tại các trường học để phục vụ cho quá trình sản xuất của đơn vị mình. Trong khi với tiềm năng khoa học sẵn có, các sinh viên của chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu mà các doanh nghiệp cần.
Thứ năm, nhiều sinh viên chưa có kế hoạch, định hướng cụ thể trước khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài. Nhiều công trình còn mang tính “lãng mạn”, tính lý thuyết. Bởi vậy, sau khi được hoàn tất vẫn ít có khả năng tìm được lối ra. Bên cạnh đó, còn có một thực tế là nhiều sinh viên của chúng ta vẫn chưa chủ động và nhạy bén trong việc tiếp thị sản phẩm tri thức của chính mình, vẫn có tâm lý trông chờ vào người khác.
Công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên là tài sản tri thức vô cùng quý giá và quan trọng đối với sự phát triển đất nước về mọi mặt. Vì vậy, nó cần phải được khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. Để làm được điều đó, trước hết, Nhà nước cần có chính sách đầu tư một cách tích cực, có sự ưu đãi và hỗ trợ đặc biệt đối với những công trình có khả năng đem lại hiệu quả cao. Nhà nước cũng cần ban hành thêm những quy chế để quản lí chặt chẽ hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Đặc biệt, cần có sự định hướng rõ ràng và kế hoạch cụ thể khi cấp kinh phí cho một đề tài hay một chương trình nghiên cứu. Và khi đề tài đã hoàn tất, Nhà nước cần có tạo điều kiện để các tác giả có được những cơ hội tìm kiếm đối tác cho công trình của mình. Điều đó cũng có nghĩa là tạo điều kiện để doanh nghiệp ( cả trong nước lẫn nước ngoài) có thể đầu tư cho khoa học công nghệ, phục vụ cho quá trình sản xuất của đơn vị mình. Nhưng điều căn bản nhất hiện nay vẫn là cần thiết lập một thị trường về khoa học công nghệ, để những người nghiên cứu khoa học có thể thuận tiện trong trao đổi, hợp tác.
Về phía các doanh nghiệp, cần chủ động xây dựng mối quan hệ hợp tác với các trường học. Từ đó tìm kiếm công nghệ, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên hướng vào phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Đó vừa là giải pháp khắc phục những khó khăn về công nghệ của bản thân doanh nghiệp (bởi đầu tư trong nước sẽ rẻ hơn so với đầu tư nước ngoài), vừa góp phần thúc đẩy nền khoa học đất nước phát triển.
Đối với các nhà trường, nơi quản lí và trực tiếp hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học, cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong việc giúp đỡ sinh viên xác định đề tài và tìm đối tác cho sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu đạt hiệu quả hơn.
Về phía sinh viên, những người trực tiếp tham gia nghiên cứu khoa học cần có sự đổi mới tư duy trong quá trình nghiên cứu. Trước khi tiến hành một đề tài khoa học, cần chú ý đến khả năng ứng dụng của nó trong thực tế. Tức là phải luôn tính đến khả năng phục vụ cuộc sống, phục vụ sản xuất của công trình. Nhưng, bên cạnh đó, tự bản thân mỗi sinh viên, hay mỗi nhóm sinh viên ấy cũng phải luôn nhạy bén, chủ động tìm đối tác cho sản phẩm của mình, không trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Đó cũng chính là xu thế chung trong nền khoa học kinh tế hiện nay.
Sinh viên nghiên cứu khoa học - chặng đường từ trang sách đến cuộc sống
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đội ngũ sinh viên có vai trò đặc biệt quan trọng. Sinh viên không chỉ mang trên vai trọng trách của thế hệ trẻ, mà còn đại diện cho nền tri thức của cả dân