Do diễn biến thời tiết bất thường như trên, lưu lượng nước về các hồ thủy điện miền Bắc trong mùa lũ và thời gian sau mùa lũ năm 2009 suy giảm mạnh so với trung bình nhiều năm (TBNN) và so với năm 2008. Số liệu thủy văn cho thấy lượng nước về hồ Hòa Bình trong các tháng 8, 9, 10 chỉ đạt từ 57-77% so với TBNN, hồ Thác Bà chỉ đạt từ 50-60% so với TBNN, hồ Tuyên Quang chỉ đạt 41-48% so với TBNN. Trong tháng 11 lưu lượng nước về hồ Hòa Bình chỉ đạt 43% so với TBNN, 23% so với 2008, hồ Thác Bà đạt 35% TBNN, 13% so với 2008, hồ Tuyên Quang chỉ đạt 44% TBNN. 3 tuần đầu tháng 12, lưu lượng nước về hồ Hòa Bình chỉ đạt 63% so với TBNN, 60% so với 2008, hồ Thác Bà đạt 58% TBNN, 39% so với 2008, hồ Tuyên Quang chỉ đạt 61% TBNN. Tính chung giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 11, tổng lượng nước về hồ Hòa Bình chỉ đạt 83%, Thác Bà đạt 68%, Tuyên Quang đạt 79% so với TBNN. Vì vậy, đến thời điểm tháng 12/2009, lượng nước trữ trong các hồ thủy điện đều thấp hơn nhiều so với thiết kế.

 

Tình hình khô hạn như đã nêu trên có ảnh hưởng lớn đến việc tích nước các hồ thủy điện Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang trong thời gian sau mùa lũ nhằm chuẩn bị cho cấp điện và nước mùa khô năm 2010. Theo dự kiến, ở thời điểm 31/12/2009, mức nước hồ Hòa Bình có thể đạt trên 116 m (MNDBT 117 m), Thác Bà 51 m/58m, Tuyên Quang 103,71 m/120 m.

 

Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân năm 2010 ở đồng bằng Bắc Bộ trong điều kiện dự báo có thể xảy ra khô hạn nghiêm trọng, Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều chỉ đạo kịp thời. Ngày 23/11/2009 Bộ NN và PTNN có chỉ thị số 3818/CT-BNN-TL về việc thực hiện các giải pháp bảo đảm nước tưới phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân 2009-2010 ở các tỉnh Bắc Bộ. Ngày 16/12/2009, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 2101/CT-TTg về việc triển khai một số biện pháp cấp bách khắc phục tình trạng thiếu nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong những tháng cuối năm 2009, đầu năm 2010. Căn cứ trên những chỉ đạo này, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã làm việc với Cục thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn về kế hoạch xả nước các hồ thủy điện phục vụ tưới tiêu và đổ ải. Theo đó, EVN sẽ phối hợp với Cục Thủy lợi điều phối việc xả nước 3 hồ thủy điện Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang trong 3 đợt phù hợp lịch lấy nước và gieo cấy ở các địa phương. Đợt 1 sẽ diễn ra trong 9 ngày từ 26/1-3/2/2010, đợt 2 kéo dài 7 ngày từ 7/2-13/2/2010 và đợt 3 kéo dài 4 ngày từ 22/2-24/2. Tổng lượng nước xả dự kiến ở mức 2,8-3,5 tỷ m3 nước. Ngày 11/12/2009, EVN đã có văn bản số 5198/EVN-KD-KTSX về việc đảm bảo nước và điện phục vụ sản xuất vụ Đông - Xuân 2009 - 2010, chỉ đạo các đơn vị Điện lực thực hiện phương án cung cấp điện an toàn cho các trạm bơm điện, đồng thời làm việc với các Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi đề nghị tích cực kiểm tra, củng cố thiết bị các trạm bơm điện, nạo vét kênh mương và làm việc với các địa phương đề nghị vận động bà con tranh thủ lấy và sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệnm trong các đợt xả nước tập trung từ các hồ thuỷ điện.

 

Việc xả nước các hồ thủy điện vào thời gian tháng 1, tháng 2/2010 sẽ gây một số khó khăn trong cung ứng điện vào giai đoạn cuối mùa khô (tháng 5, tháng 6). Tuy nhiên, ý thức được tầm quan trọng của việc đảm bảo kết quả thắng lợi vụ Đông Xuân, EVN đang tính toán các phương án để vừa đảm bảo sản xuất nông nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu điện trong các tháng mùa khô 2010.

 

Dự kiến, phụ tải 6 tháng mùa khô năm 2010 có thể đạt 46,92 tỷ kWh, tăng 6,44 tỷ kWh (16,04%) so với mùa khô 2008 (kịch bản cơ sở) hoặc 48,28 tỷ kWh, tăng 7,53 tỷ kWh (19,42%) so với mùa khô 2008 (kịch bản cao). Căn cứ theo các tính toán hiện nay, về cơ bản có thể đáp ứng nhu cầu phụ tải nêu trên nếu không xảy ra các sự cố nguồn lớn, kéo dài và các nguồn điện mới vào vận hành ổn định.

 

Từ đầu quý IV/2009, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã chuẩn bị kế hoạch sản xuất, phương thức vận hành hệ thống điện chi tiết cho các tháng mùa khô 2010, đồng thời chủ động thực hiện nhiều giải pháp để đảm bảo cung cấp điện. Cụ thể:

i)       Đảm bảo tiến độ sửa chữa, đại tu các tổ máy phát điện hiện có, đảm bảo mức độ sẵn sàng cao nhất để huy động khi hệ thống yêu cầu.

ii)     Từ quý IV/2009, huy động cao tất cả các nguồn nhiệt điện, kể cả các nguồn điện giá thành đắt (Ô Môn, Thủ Đức, Cần Thơ, Hiệp Phước, Formosa, v.v...) mặc dù gây phát sinh chi phí lớn cho EVN để thực hiện kế hoạch tích nước các hồ thủy điện đến mực nước cao nhất có thể vào cuối tháng 12/2009, đặc biệt triệt để tiết kiệm nước 3 hồ thủy điện phía Bắc là Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà. Trừ 2 hồ Thác Bà, Tuyên Quang do lượng nước về quá thấp nên không thể tích đến mực nước dâng bình thường, hồ Hòa Bình sẽ đạt mức nước trên 116 m vào 31/12/2009.

iii)    Đàm phán với Công ty Lưới điện Vân Nam (Trung Quốc) để mua sản lượng điện tối đa trong quý IV/2009 và 6 tháng mùa khô 2010.

iv)    Thực hiện truyền tải tối đa công suất và sản lượng từ miền Nam ra miền Bắc ngay từ đầu tháng 11/2009. Hiện nay, trung bình mỗi ngày miền Bắc nhận từ 34 - 36 triệu kWh từ đường dây 500 kV Bắc - Nam.

v)      Hoàn thành chạy thử thách, cấp chứng chỉ PAC tổ máy Uông Bí MR1 (300 MW) trong tháng 11/2009.

vi)    Đẩy nhanh tiến độ các công trình nguồn điện mới, đưa vào vận hành ổn định 9 tổ máy phát điện với tổng công suất 1.163 MW, bao gồm TM 1 Ô Môn 1 (330 MW),  TĐ Sông Ba Hạ (2x110 MW), TĐ Buôn Kuốp (2x140 MW), TM 1 TĐ Pleikrong (50 MW), TM1 TĐ Buôn Tuasrah (43 MW), TM 1, 2 TĐ Sesan 4 (2x120 MW). Hòa lưới thử nghiệm 4 tổ máy với tổng công suất 693 MW, gồm TM2 TĐ Plei Krông (50MW), TM1 NĐ Quảng Ninh 1 (300MW), TM1 NĐ Hải Phòng 1 (300MW), TM 2 TĐ Buôn Tuasrah (43MW). Chuẩn bị để trong quí I/2010 đưa vào vận hành thêm 440 MW (TM3 TĐ Sesan 4 - 120 MW, TĐ Bản Vẽ - 2x160 MW), đồng thời thúc đẩy tiến độ 2 dự án nhiệt điện Quảng Ninh 1 và Hải Phòng 1.

vii)   Tăng cường công tác quản lý vận hành, đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện, đặc biệt là vận hành an toàn đường dây 500 kV Bắc - Nam. Bố trí phương thức vận hành hệ thống điện hợp lý, đảm bảo an toàn và giảm tổn thất điện năng. Thường xuyên cập nhật, điều chỉnh khi có tình huống bất thường xảy ra trong hệ thống.

viii) Làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam để đẩy nhanh tiến độ 2 dự án nhiệt điện Sơn Động (2x110 MW) và Cẩm Phả (300 MW), trước mắt đề nghị trưng dụng các tổ máy của nhiệt điện Sơn Động để tăng nguồn cho hệ thống miền Bắc.

ix)   Làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đề nghị đảm bảo cung cấp đủ lượng khí cần thiết cho sản xuất điện trong 6 tháng mùa khô và cả năm 2010. Cụ thể, đảm bảo lượng khí Nam Côn Sơn cấp cho sản xuất điện ở mức 18 triệu m3/ngày, khí Cửu Long 0,6 triệu m3/ngày, khí PM3 trên 5 triệu m3/ngày.

x)     Phối hợp với chủ đầu tư các nguồn điện ngoài EVN đảm bảo kế hoạch phát điện.

xi)   Phối hợp chặt chẽ với Cục Thuỷ lợi (Bộ NN&PTNT) tính toán, điều hoà lượng nước hợp lý trong các đợt xả nước phục vụ đổ ải vụ Đông Xuân 2010. EVN cũng đã đề nghị Bộ NN&PTNT và các địa phương chỉ đạo các Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi tích cực nạo vét kênh mương, củng cố thiết bị trạm bơm, đồng thời vận động bà con nông dân tích cực lấy nước trong các đợt xả nước tập trung đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm. 

xii)  Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương, các cơ quan thông tấn báo chí triển khai tích cực chương trình tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm.

 

Để giảm thiểu các khó khăn trong cung cấp điện mùa khô 2010, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có một số kiến nghị như sau:

(i) Đề nghị Chính phủ, Bộ Công Thương tiếp tục chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tiết kiệm điện nghiêm túc theo Chỉ thị 19/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

(ii) Đề nghị các ngành, các cấp chính quyền và nhân dân các địa phương thực hiện nghiêm Chỉ thị số 2101/CT-TTg ngày 16/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 3818/CT-BNN-TL ngày 23/11/2009 của Bộ NN và PTNN về việc đổ ải phục vụ canh tác vụ Đông Xuân, tuân thủ chặt chẽ lịch xả nước đã công bố nhằm tiết kiệm nguồn nước.