Mở rộng quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm cho DN:

Tháng 4/1978, Trung uơng Đảng CS Trung Quốc đã ban hành: “Quyết định về một số vấn đề tăng cuờng phát triển công nghiệp“, trong đó quy định các DN sau khi hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, có thể trích một phần tỷ lệ trong lợi nhuận để lập quỹ phúc lợi tập thể trong DN. Sau đó, Quốc vụ viện Trung Quốc tiếp tục phê chuẩn “Quy định về thí điểm thực hiện Quỹ DN trong các DNNN“. Theo quy định này, DN được giữ lại một phần lợi nhuận (tương đương 5% tổng số lương cả năm của CNV) để lập quỹ cho DN, Nhà nước không thu toàn bộ lợi nhuận của DN như trước nữa. Sau Hội nghị TW3 khóa XI, việc thí điểm mở rộng quyền tự chủ đã được đẩy mạnh, số DN thực hiện thí điểm ở Trung Quốc đã tăng từ  6 lên 100 DN.

Năm 1984, Trung Quốc đã ban hành văn bản “Một số quy định tạm thời về việc tăng cường hơn nữa quyền tự chủ cho các DNNN”, bao gồm 10 nội dung: Về kế hoạch sản xuất, khi hoàn thành đầy đủ các kế hoạch Nhà nước giao, DN có thể tự sản xuất thêm một số mặt hàng theo nhu cầu của thị trường; Về tiêu thụ sản phẩm, các DN được quyền tiêu thụ thêm nhiều sản phẩm nằm ngoài các sản phẩm đặc biệt mà trước đây Nhà nước quy định, DN không đuợc tự ý tiêu thụ; Về giá thành sản phẩm, DN có quyền tự mình định giá hoặc do hai bên mua – bán tự thỏa thuận; Về mua vật tư, DN có quyền chọn đơn vị cung cấp đối với những vật tư do Nhà nước thống nhất phân phối; Về sử dụng vốn, căn cứ vào tỷ lệ quy định của các ngành chủ quản, DN có thể dùng số vốn được giữ lại để lập quỹ DN; Về xem xét xử lý tài sản, DN có quyền cho thuê hoặc chuyển nhượng có bồi hoàn tài sản cố định dư thừa; Về cơ cấu, DN có quyền căn cứ vào đặc điểm và nhu cầu thực tế để quyết định cơ cấu và số nhân công trong DN; Về quản lý nhân sự: Giám đốc và bí thư Đảng uỷ nhà máy do các ngành chủ quản cấp trên bổ nhiệm. Các DN có thể tuyển chọn nhân viên kỹ thuật và cán bộ quản lý; Về lương và tiền thưởng: DN có quyền định ra hình thức tiền lương và mỗi năm có thể tăng lương cho 3% số CBVC trong DN; Về quan hệ hợp tác, DN có quyền tham gia hoặc tổ chức các hoạt động hợp tác kinh tế liên ngành, liên khu vực, có quyền chọn đối tác kinh doanh.

2. Giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế”:  Tháng 4 năm 1983, Trung Quốc đã thực hiện giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 1”. Nội dung chủ yếu của cải cách này là:

- Tất cả các DN lớn và vừa làm ăn có lãi phải căn cứ vào lợi nhuận thực tế để nộp thuế thu nhập cho Nhà nước, với mức thuế bằng 55% tổng lợi nhuận thực tế. Số lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế của DN vẫn phải nộp cho Nhà nước, DN chỉ được giữ lại một phần theo quy định.

- Đối với các DN nhỏ làm ăn có lãi, thì căn cứ vào lợi nhuận thực tế để nộp thuế theo phương thức luỹ tiến.

- Các DN dịch vụ như khách sạn, nhà hàng ăn uống phải nộp 15% thuế thu nhập.

- Các hợp tác xã thương mại cấp huyện nộp thuế theo cấp luỹ tiến.   

- Nhà nước chỉ thực hiện bù lỗ theo định mức cho các DN nằm trong diện chính sách theo quy định, không bù lỗ vượt mức.

- Phần lợi nhuận được giữ lại sau khi nộp thuế, được dùng để lập các loại quỹ của DN.

Mục đích của giải pháp cải cách này là từng bước chuyển đổi hình thức nộp lợi nhuận của DN, DN sẽ nộp lợi nhuận dưới dạng thuế. ý nghĩa của việc DNNN nộp thuế thừa nhận vai trò độc lập của DN, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần sự quản lý trực tiếp của các cơ quan hành chính đối với DN, hạn chế việc bao cấp, coi DNNN như một bộ phận làm kinh tế của các cơ quan hành chính nhà nước. Mặc dù chứa đựng nhiều ý nghĩa tích cực như vậy, song biện pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 1” vẫn còn một số điểm bất hợp lý, ảnh hưởng đến hiệu quả cải cách. Do đó, để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn, năm 1984, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã quyết định thực hiện giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 2”, mà điểm khác biệt căn bản so với bước 1 là DNNN sẽ chỉ phải nộp thuế, ngoài ra, không phải nộp thêm phần lợi nhuận nào khác cho Nhà nước. Nội dung của “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 2” bao gồm:

- Dựa vào đối tượng nộp thuế để phân thuế công thương thành: thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh nghiệp. Tăng thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế sử dụng ruộng đất.

- Khi định thuế suất điều tiết, lấy lợi nhuận thực tế của DN làm cơ số và coi đó là lợi nhuận cơ bản để tính sau khi điều chỉnh

- DNNN nhỏ làm  ăn có lãi, sau khi nộp thế thu nhập theo mức luỹ tiến  sẽ phải chịu lỗ lãi, Nhà nước không tiếp tục bù lỗ.

Giải pháp này được coi là pháp lệnh hóa đối với mối quan hệ về phân phối lợi nhuận giữa nhà nước và DN. Điều này không chỉ góp phần làm minh bạch tình hình tài chính DN mà còn luật hóa mới quan hệ giữa DN với Nhà nước, mà vẫn duy trì được các khoản thu cho ngân sách. Đối với DN, biện pháp này cho phép DN được thêm nhiều lợi ích trong phân phối lợi nhuận, góp phần nâng cao tính năng động, tích cực của DN.

3. Thực hiện chế độ tự chủ trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh: Tháng 12/1986, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ban hành: “Một số quy định về việc đi sâu cải cách DNNN, tăng cường sức sống cho DN. Các DN loại nhỏ thuộc chế độ sở hữu toàn dân tích cực thí điểm  cho thuê kinh doanh và khoán kinh doanh. Chọn lựa một số doanh nghiệp loại vừa, lãi ít hoặc bị lỗ để tiến hành thí điểm cho thuê kinh doanh và khoán kinh doanh. Các DN lớn thuộc chế độ sở hữu toàn dân cần thực hiện chế độ trách nhiệm kinh doanh dưới nhiều hình thức đa dạng...”. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng cải cách này, chế độ khoán kinh doanh đã được thí điểm  rộng rãi ở Trung Quốc, tạo điều kiện cho DN thực sự trở thành thực thể kinh tế tương đối độc lập, tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.  Tính đến những năm 90 của thế kỷ trước, có 93% số DNNN ở Trung Quốc đã thực hiện biện pháp cải cách mới này, trong đó các DN lớn và vừa chiếm 95%.  

4. Cổ phần hóa các DNNN: Cổ phần hóa đã được thực hiện ở Trung Quốc từ năm 1984. Đại hội XV Đảng CS Trung Quốc đã khẳng định: “Chế độ cổ phần là một hình thức tổ chức vốn của DN hiện đại, có lợi cho việc tách riêng quyền sở hữu và quyền kinh doanh, cho việc nâng cao hiệu quả vận hành DN và sử dụng vốn…”. Các công ty cổ phần ở Trung Quốc được hình thành chủ yếu theo 3 cách: Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ DN; Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội; Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các DN. Tính đến năm 2000, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN chuyển thành công ty cổ phần với  tổng số vốn trên 600 tỷ NDT. Nhiều công ty cổ phần đã tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải, Thẩm Quyến, một số công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài... Sau khi cổ phần hóa, quyền tài sản trong các doanh nghiệp sẽ được chia thành 3 cấp: Quyền sở hữu cuối cùng (Nhà nước), quyền sở hữu pháp nhân (DN) và quyền quản lý kinh doanh (Tổng giám đốc).

Đến năm 2000, Trung Quốc đã cơ hơn 4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật DN với tổng số vốn đạt hơn 360 tỷ NDT.

5. Xây dựng tập đoàn DN: Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt của cải cách DNNN là làm cho các DNNN có sức sống. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế không chỉ đòi hỏi các DNNN phải trở thành trụ cột ở trong nước mà còn đặt ra yêu cầu quốc tế hóa hoạt động của DNNN. Về cơ bản, sự phát triển của các tập đoàn DN ở Trung Quốc được trải qua 5 giai đoạn, bao gồm: Giai đoạn phôi thai (từ năm 1978 – 1985); Giai đoạn xuất hiện một số tập đoàn DN (Từ tháng 2/1986); Giai đoạn hình thành các tập đoàn DN (từ tháng 12/1987), trong đó nổi bật là Chính phủ Trung Quốc cho ban hành: “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn DN”. Sau nhiều năm chú trọng xây dựng và phát triển, đến nay, Trung Quốc đã bước đầu hình thành hệ thống tập đoàn DN có quy mô và tốc độ tăng trưởng nhanh. Tính đến năm 2000, Trung Quốc có tổng số hơn 2.655 tập đoàn DN với tổng giá trị tài sản đạt hơn 106.983 tỷ NDT, doanh thu đạt hơn 53.250 tỷ NDT, lợi nhuận đạt 2.900 tỷ NDT...

Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn của cải cách DNNN ở Trung Quốc.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, văn hoá, lịch sử... Đặc biệt, trong thời hiện đại, Việt Nam cũng đã đi con đường phát triển kinh tế-xã hội mà Trung Quốc đã đi qua. Từ thực tiễn thành công trong cải cách DNNN ở Trung Quốc, Việt Nam có thể học hỏi một số kinh nghiệm quý báu như:

- Kinh nghiệm về khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho kinh tế Nhà nước. 

- Kinh nghiệm trong vấn đề quản lý tài sản nhà nước.

- Đa dạng hóa hình thức thực hiện của chế độ công hữu, đẩy mạnh cải cách quyền tài sản và cổ phần hóa DNNN.

 - Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với quản lý DNNN, giữa cải cách DNNN với điều chỉnh kết cấu và bố cục của kinh tế nhà nước.