PV: Xin ông cho biết vài nét về tiềm năng phát triển làng nghề ở Ninh Bình?
Ông Vũ Văn Tám: Ninh Bình là một tỉnh tập trung nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng như: Nghề thêu ren ở thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư; nghề sản xuất và chế biến cói ở huyện Kim Sơn; nghề chạm khắc đá ở xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư và nghề làm mộc ở xã Ninh Phong (thị xã Ninh Bình)… Lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề này có cách đây từ 300-400 năm. Trải qua nhiều bước thăng trầm, phụ thuộc vào nhu cầu thị trường, vào công tác xúc tiến thương mại, hoạt động của các làng nghề, lúc được thăng hoa, khi lại gần như mai một. Thời kỳ hệ thống các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, nghị định thư về hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam không được ký nữa, nghề sản xuất cói và thêu ren ở Ninh Bình gần như điêu đứng, không phát triển được. Trong 10 năm trở lại đây, sản phẩm độc đáo sản sinh từ các làng nghề này đang ngày càng nở rộ với nhiều mặt hàng mỹ nghệ, TTCN phong phú, mẫu mã đa dạng được phát triển rộng khắp trong cả nước và có mặt tại gần 30 nước trên thế giới. Hiện nay các mặt hàng mỹ nghệ như cói, thêu ren đang là một trong những nhóm hàng chủ lực chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Ninh Bình. Xác định đây là một trong những thế mạnh để phát triển kinh tế, nên ngay từ tháng 7/2005, UBND Tỉnh đã tiến hành quy hoạch, ban hành quy định tiêu chuẩn làng nghề, trong tiêu chuẩn ghi rõ cứ mỗi làng nghề được công nhận thì Tỉnh sẽ cấp kinh phí 15 triệu đồng để hoạt động, đồng thời có các chính sách ưu đãi khác để phát triển. Bên cạnh đó Tỉnh cũng đã quy hoạch được 3 KCN và 19 CCN để thúc đẩy việc kêu gọi thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển làng nghề. Đặc biệt trong kế hoạch xúc tiến thương mại, Ninh Bình đang quy hoạch một khu dịch vụ khoảng 200 ha nằm trên trục đường lớn từ nhà thi đấu đến khu du lịch Tràng An. Tại đây sẽ thu hút đầu tư xây dựng các trung tâm giao dịch, giới thiệu sản phẩm về các làng nghề truyền thống của Ninh Bình, coi đây như là một làng nghề thu nhỏ tập trung những sản phẩm nghề tinh tuý nhất của Ninh Bình. Còn các làng nghề hiện có sẽ trở thành những vệ tinh với chức năng là sản xuất và cung ứng sản phẩm. Tiến tới, các trụ sở của cơ quan nằm trên các trục đường chính trong nội thị, sẽ được quy hoạch tập trung, để nhường lại quỹ đất cho việc xây dựng các dự án trung tâm thương mại, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ ăn uống, dịch vụ văn hóa…
PV: Tại làng cói Kim Sơn, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ cá thể làm nghề chế biến cói đang “khát” trầm trọng về nguyên liệu. Hiện diện tích cói ở Kim Sơn mới chỉ đáp ứng được 30-40% tổng nhu cầu cói cần dùng. Vậy tỉnh Ninh Bình đã có giải pháp nào để khắc phục tình trạng này thưa ông?
Ông Vũ Văn Tám: Đây là vấn đề rất bức xúc ở Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình biết rất rõ và đang “xoay” không kịp. Nguyên nhân vùng nguyên liệu cói đang bị thu hẹp là do nghề nuôi trồng thuỷ sản, nuôi tôm sú ở Kim Sơn có hiệu quả hơn, dễ làm hơn nên người dân đã bỏ diện tích trồng cói để thay thế. Năm 2003, huyện có khoảng 900 ha diện tích trồng cói thì đến 2005, số diện tích này bị thu hẹp chỉ còn 500 ha. Đứng trước tình hình này, tại các kỳ Đại hội Tỉnh Đảng bộ, trong văn kiện đều nhấn mạnh việc quy hoạch, bảo vệ, duy trì và phát triển vùng nguyên liệu cói. Đây không chỉ là vấn đề công ăn việc làm, mà nó còn là cả vấn đề giữ gìn nét đẹp văn hoá, thương hiệu, biểu tượng của Kim Sơn và Ninh Bình (Kim Sơn là một trong những cái nôi sinh ra nghề cói trong cả nước). Để chủ trương quy hoạch phát triển trồng cói có hiệu quả, Tỉnh đã có chính sách hỗ trợ các hộ trồng cói 2 triệu đồng/1ha đối với diện tích trồng mới. Tuy nhiên, vẫn không ngăn chặn được tình trạng ngày càng giảm diện tích cói, vì khi thực hiện dự án, Tỉnh chưa gắn được trách nhiệm giữa các doanh nghiệp chế biến cói với các hộ và các HTX trồng cói. Hơn nữa, hệ thống doanh nghiệp chế biến cói ở Ninh Bình còn đang ở dạng nhỏ lẻ, nên không tự xây dựng thành một vùng nguyên liệu riêng. Tình trạng hiện nay là, mặc dù tỉnh đã phải hỗ trợ cho nông dân là 2 triệu/1ha trồng cói nhưng khi thu hoạch họ lại bán tự do, nơi nào đắt thì bán. Còn doanh nghiệp thì lại chọn nơi nào rẻ thì mua. Trong khi các doanh nghiệp ở Trung Quốc ồ ạt sang Ninh Bình để thu mua cói, thì các doanh nghiệp trong tỉnh lại phải vào Nga Sơn (Thanh Hóa) hoặc các nơi khác để tìm kiếm thị trường.
Trong văn kiện Đại hội Tỉnh Đảng bộ XV, Ninh Bình đã xác định quy hoạch diện tích cói đến năm 2010 đạt 1.500 ha. Tỉnh sẽ lấy kinh nghiệm từ mô hình xây dựng vùng nguyên liệu dứa ở Đồng Giao mà Tỉnh đã xây dựng thành công để lập kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu cói. Cụ thể Tỉnh giao cho huyện Kim Sơn làm chủ đầu tư và HTX Bình Minh trực tiếp thực hiện dự án dưới sự chỉ đạo của UBND Tỉnh.
PV: Có ý kiến cho rằng, để dự án hoạt động có hiệu quả, Ninh Bình cần phải thành lập Hiệp hội Cói. Xin ông cho biết quan điểm của Tỉnh?
Ông Vũ Văn Tám: Đây là một ý kiến hay, Tỉnh cũng sẽ phải tính đến phương án này. Vì nếu thành lập được hiệp hội, kết hợp dự án tổng thể 34 tỷ trong kế hoạch xây dựng vùng nguyên liệu 1.500 ha từ nay đến năm 2010, chắc chắn sự liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến cói với Hiệp hội và người trồng cói sẽ chặt chẽ và hiệu quả hơn, việc xác định trách nhiệm của các bên trong liên kết “bốn nhà” cũng rõ hơn. Ví dụ: Trách nhiệm của tỉnh đến đâu?; của huyện đến đâu?; của các doanh nghiệp và của từng hộ nông dân đến đâu?... Từ đó Tỉnh sẽ đề ra một cơ chế đồng bộ để xây dựng vùng nguyên liệu cói phát triển bền vững. Hiện nay chúng tôi cũng đã làm việc với một số doanh nghiệp lớn trong sản xuất và chế biến cói xuất khẩu ở Kim Sơn để bàn về việc này.
PV: Tại làng nghề truyền thống đá Ninh Vân, hiện đang có hơn 20 doanh nghiệp lớn, nhỏ mọc lên để khai thác đá, tổ chức tập hợp các nghệ nhân để kinh doanh sản phẩm làm bằng đá. Sự nhộn nhịp của làng nghề, bụi đá đang làm ô nhiễm môi trường, công tác bảo hộ cho các nghệ nhân, những người lao động trực tiếp chưa được các doanh nghiệp quan tâm. Vậy Tỉnh đã có giải pháp gì để khắc phục?
Ông Vũ Văn Tám: Từ trước tới nay tỉnh luôn coi đây là một trong những làng nghề cần phải quan tâm. Đây là làng nghề thực hiện quy hoạch thí điểm đầu tiên của Tỉnh. UBND Tỉnh cũng đã đầu tư kinh phí và phê duyệt dự án dành quỹ đất riêng trong xã Ninh Vân cho việc quy hoạch. Cụ thể: Tỉnh giao cho Ban Quản lý Khu công nghiệp kết hợp với huyện Hoa Lư thực hiện quy hoạch dự án. Với việc quy hoạch này, chúng tôi vừa giải quyết được yếu tố thẩm mỹ, vừa giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường. Tỉnh cũng đã giao cho Sở Tài nguyên Môi trường có kế hoạch tư vấn hướng dẫn các hộ gia đình làm nghề, các doanh nghiệp chưa vào khu quy hoạch sẽ thực hiện chế độ bảo hộ để hạn chế ô nhiễm môi trường. Chúng tôi còn xác định hướng quy hoạch làng nghề Ninh Vân gắn với làng nghề du lịch để thu hút khách cho phát triển ngành.
PV: Được biết Ninh Bình sẽ mở rộng xây dựng thêm 4 nhà máy sản xuất xi măng trên địa bàn, nhiều người lo ngại các mỏ đá sẽ bị khai thác cạn kiệt. Vậy đề nghị ông cho biết phương án quy hoạch vùng nguyên liệu đá cho làng nghề?
Hiện nay Tỉnh đang chỉ đạo xây dựng phương án quy hoạch lại vùng nguyện liệu đá nằm trên địa bàn xã Ninh Vân. Tại đây có 2 loại đá, một loại đá mỹ nghệ làm nghề thủ công và một loại dùng cho sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng. Riêng loại đá mỹ nghệ, quan điểm của Tỉnh và huyện Hoa Lư (huyện có làng nghề đá) là bằng mọi biện pháp phải giữ lại để bảo tồn vùng nguyên liệu cho phát triển làng nghề. Nhưng hiện nay Tỉnh đang gặp khó khăn về kinh phí cho công tác thăm dò khảo sát các mỏ đá. Bởi có những núi đá bên ngoài chỉ có thể cung cấp cho ngành sản xuất vật liệu, nhưng khai thác sâu bên trong thì lại phát hiện ra đá đẹp có thể làm mỹ nghệ. Trước đây, khi nghề chạm khắc đá chưa phát triển, Ninh Bình đã cấp phép cho một số doanh nghiệp tư nhân khai thác dọc dãy núi trong Ninh Vân, để sản xuất vật liệu xây dựng, nhưng việc khai thác và quản lý khai thác chưa hợp lý. Tới đây Tỉnh sẽ phải nhanh chóng quy hoạch lại các dãy núi này để bảo tồn vùng nguyên liệu cho làng nghề đá phát triển.
PV: Xin cảm ơn ông!