Nếu không xét đến tác động bất thường của yếu tố bên ngoài, sự “mạo hiểm” của công việc dự báo bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính:

Một là, cho đến nay (dù hết quý III), định hướng triển khai tiếp số lượng lớn còn lại của gói kích cầu 8 tỷ USD vẫn chưa xác định được cụ thể. Theo logic, chắc chắn triển vọng tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô (nhất là triển vọng ổn định) của năm 2010 và cả những năm sau đó tuỳ thuộc rất lớn vào việc triển khai thực hiện gói kích cầu này.

Hai là, trong giai đoạn tới, sự lựa chọn ưu tiên giữa các mục tiêu cải cách dài hạn (tập trung cho nhiệm vụ tái cơ cấu nhằm khắc phục các điểm yếu của cơ cấu, giải toả các “nút thắt” tăng trưởng), hay mục tiêu khôi phục kinh tế ngắn hạn trước mắt, giúp cân bằng lại tình hình... vẫn đang là chủ đề thảo luận trong giới nghiên cứu học thuật và cả giới hoạch định chính sách. Vẫn chưa có định hướng ưu tiên chính thức rõ ràng cho việc giải quyết hai nhiệm vụ có tính “tranh chấp nguồn lực” này.

Theo lập luận đó, để xác lập căn cứ dự báo, cần phân tích tính hiện thực hợp lý của gói kích cầu thứ hai, đồng thời, làm rõ tương quan ưu tiên tối ưu cần thiết giữa việc thực hiện các mục tiêu dài hạn với các nhiệm vụ ngắn hạn. Vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là, khi triển khai gói kích cầu thứ hai, cần đặc biệt chú ý đến những yếu tố sau:

Thứ nhất, giống như khi chịu tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á (1997 - 1999), xu hướng suy giảm tăng trưởng và bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam khi chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu lần này đã bộc lộ từ trước khi cuộc khủng hoảng thực sự tác động vào nền kinh tế nước ta.

Nhận định này hàm ý rằng, tình trạng khó khăn của nền kinh tế năm 2009 có một căn nguyên quan trọng, là do sự yếu kém nội tại chứ không hoàn toàn chủ yếu từ tác động tiêu cực bên ngoài. Khủng hoảng bên ngoài gây tác động tiêu cực không nhỏ cho nền kinh tế vốn dễ bị tổn thương của Việt Nam. Tuy nhiên, nó không quyết định tình trạng đó, mà chỉ đóng vai trò làm nghiêm trọng thêm do các điểm yếu cơ cấu tồn tích bên trong gây ra.

Thứ hai, thực tế cho thấy, dù bị suy yếu nhiều sau hai năm (2007 - 2008) chống chọi với suy giảm tăng trưởng và bất ổn vĩ mô, nền kinh tế nước ta vẫn có một năng lực chống đỡ trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng toàn cầu “trăm năm mới có một”. Dưới tác động mạnh của khủng hoảng, quá trình suy giảm tăng trưởng không kéo dài và không quá nghiêm trọng, tốc độ phục hồi nhanh, ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Tính chung 9 tháng đầu năm 2009, GDP đã tăng 4,6%. Có cơ sở để dự báo GDP của cả năm 2009 sẽ đạt 5% hoặc hơn, tức là cao hơn mức tăng trưởng “đáy” 4,77% của năm 1999, mặc dù cuộc khủng lần này được coi là tồi tệ hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 - 1999.

Thực tế này cung cấp một luận cứ quan trọng để xác nhận, một là, tính chính xác của các dự báo và đánh giá mức độ tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước ta và mức độ trầm trọng của tình hình đưa ra cuối năm 2008, đầu năm 2009 “ nặng” và bi quan hơn so với thực tế; hai là, vai trò đích thực của gói kích cầu đã được triển khai rất quan trọng, nhưng không lớn đến mức như dự tính.

Thứ ba, khi phân tích cơ cấu gói kích cầu, làm rõ tác động thực các cấu phần cụ thể của nó, tính xác đáng của nhận định trên càng lộ rõ. Xét theo tính chất nội dung, có thể phân gói kích cầu tổng đã triển khai (gói kích cầu 1) thành 4 gói nhỏ.

Gói 1: Hỗ trợ lãi suất 4% (17 nghìn tỷ đồng);

Gói 2: Hỗ trợ tiêu dùng, (hỗ trợ hộ nghèo ăn Tết, mỗi hộ nghèo 1 triệu đồng), miễn thuế thu nhập cá nhân;

Gói 3: Hỗ trợ đầu tư (giảm, miễn, hoãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp Việt Nam, cho nông dân vay không  lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất nông nghiệp).

Gói 4: Đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản như kết cấu hạ tầng nhà ở cho sinh viên, khu chung cư cho người thu nhập thấp...

Trong bốn gói này, gói 4 là gói lớn nhất, nhưng hầu như chưa triển khai được gì, do nguồn vốn không có (phát hành trái phiếu không thành công), do tính chất dài hạn của loại hình đầu tư khó phù hợp với tiêu chí kích cầu (kịp thời). Trong điều kiện năng lực triển khai kích cầu của bộ máy rất có hạn.

Hai gói 2 và 3 được triển khai, cũng có tác động tích cực, nhưng lan toả không mạnh, bởi triển khai không được nhiều.

Có thể nói, tác động mạnh nhất của gói kích cầu là tập trung ở gói cho vay hỗ trợ lãi suất 4%. Tuy nhiên, xét về thực chất, đây là gói “giải cứu”, chứ không phải là gói kích cầu. Gói 1 này đã giải thoát nhiều doanh nghiệp khỏi tình trạng  “ách tắc” lưu thông vốn do gánh nặng nợ xấu (nợ không trả được do lãi suất vay quá cao của năm 2008). Kích hoạt nền kinh tế giúp các doanh nghiệp thoát khỏi “điểm chết”, gói “kích cầu” này đã hoàn thành sứ mệnh “giải cứu’ nền kinh tế.

Sự phân tích trên đây cho thấy, trong giai đoạn vừa qua, để nền kinh tế khôi phục lại tăng trưởng, gói “giải cứu” đóng vai trò chính; còn các gói kích cầu đúng nghĩa phát huy tác dụng chưa được bao nhiêu, nền kinh tế hầu như tự động khôi phục tăng trưởng, sau khi thoát khỏi “điểm tắc nghẽn” chỉ với một số tiền vừa phải tung ra (cơ bản chưa phải là tiền kích cầu).

Các tình huống thực tiễn mang tính kinh nghiệm nêu trên có vẻ hướng tới kết luận, không nhất thiết phải kích cầu trong giai đoạn tới mà nền kinh tế vẫn có thể duy trì xu hướng cải thiện tốc độ tăng trưởng. Kết luận này được hỗ trợ thêm bởi triển vọng phục hồi tăng trưởng của kinh tế thế giới. Hội nghị G20 vừa kết thúc nhận định rằng, khủng hoảng đã chạm đáy, kinh tế thế giới bắt đầu chuyển sang giai đoạn phục hồi. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, cùng với các bằng chứng kinh nghiệm đã nêu, cần có thêm một số luận cứ, dự báo trước khi đưa ra những gợi ý rõ ràng về gói kích cầu thứ hai.

Thứ tư, ngân sách nước ta là ngân sách “trường kỳ thâm hụt”. Trong hàng chục năm, ngân sách nhà nước thường xuyên thâm hụt khoảng 5% GDP/năm. Cộng với hiệu quả đầu tư công thấp (biểu lộ một cách đơn giản qua chỉ số ICOR cao), tình trạng này đang khoét sâu sự yếu kém cơ cấu và tích đọng các nguy cơ mất cân đối vĩ mô.

Việc tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ hai đồng nghĩa với việc sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách cho năm sau, vượt qua mức “trường kỳ” vốn có.

Tuy năm nay thâm hụt ngân sách ước đoán 6,5% GDP, sẽ thấp hơn đáng kể so với mức Quốc hội cho phép 8% GDP, do lượng tiền kích cầu chưa bơm ra nhiều, song không phải vì thế mà đặt vấn đề ngân sách năm 2010 được phép chi tiêu kích cầu “bù” một cách dễ dàng.

Ngay tại thời điểm hiện nay, tuy mức lạm phát được duy trì ở mức thấp, song kỳ vọng lạm phát vẫn đang gây áp lực mạnh lên lãi suất và tỷ giá hối đoái, cộng thêm vào đó là mức thâm hụt thương mại vẫn cao, trong điều kiện kim ngạch xuất khẩu giảm... là những yếu tố tiềm ẩn gây ra bất ổn. Trong khi đó, những nền móng của cơ cấu kinh tế nước ta như thực tế năm 2007 và 2008 chỉ ra có rất nhiều điểm yếu cơ bản. Những điểm yếu này trong thời gian qua đã bộc lộ ra, được xác nhận, nhưng hầu như chưa được khắc phục, nền kinh tế đang nỗ lực cho các mục tiêu “hồi sức cấp cứu” ổn định ngắn hạn. Mục tiêu ngắn hạn đạt kết quả tích cực, song các điểm yếu cơ bản vẫn còn nguyên, thậm chí xét tổng thể còn có phần trầm trọng hơn.

Sự cân nhắc giữa lợi ích ngắn hạn và dài hạn do việc tiếp tục triển khai gói kích cầu thứ hai là rất cần thiết. Cho đến nay, các luận cứ cơ bản đều nghiêng về định hướng, không tiếp tục gói kích cầu trong năm 2010. Những lập luận về “bước đệm” về yêu cầu tránh “sốc’’ cho nền kinh tế, bằng cách nên duy trì một khoản kích cầu nào đó với khối lượng nhỏ hơn, lãi suất ưu đãi thấp hơn, điều kiện cung cấp ngặt nghèo hơn... tỏ ra không thuyết phục.

Trong khi đó, nếu tiếp tục kích cầu, hậu quả không chỉ là tăng thâm hụt ngân sách, các cân bằng tiền tệ chịu áp lực lớn, mà nghiêm trọng không kém là sự tổn hại cơ chế, thúc đẩy xu hướng phục hồi môi trường kinh doanh bất bình đẳng, có hại cho cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ năm, nếu dừng gói kích cầu thì giải thích thế nào với các khoản đầu tư dài hạn, quy mô lớn dựa vào các nguồn vốn huy động từ việc phát hành trái phiếu Chính phủ?

Ở đây cần làm rõ những vấn đề có tính nguyên tắc:

Thứ nhất là, sứ mệnh kích cầu là giúp nền kinh tế vượt qua “điểm chết”. Đến nay sứ mệnh đó đã hoàn thành.

Thứ hai là, việc ưu tiên đầu tư để giải toả các nút thắt tăng trưởng là cần thiết, song hoàn toàn có thể thực hiện theo các nguyên tắc thị trường công khai, thay vì lạm dụng cách thức ưu tiên kích cầu.

 Về nguyên tắc, trong điều kiện nền kinh tế ốm yếu về thể lực, chưa vững mạnh về cấu trúc thể chế, một khi quá trình tăng trưởng đã xác lập được thì sớm chuyển sang ưu tiên khôi phục môi trường kinh doanh thị trường bình thường, củng cố thể chế hơn là ưu tiên mục tiêu tốc độ tăng trưởng, dù là dưới hình thức khôi phục nó.

Nói như vậy cũng có nghĩa là năm 2010, nền kinh tế cần chuyển hướng ưu tiên sang nhiệm vụ tái cơ cấu, với định hướng này, có thể dự đoán năm 2010, nền kinh tế nước ta vẫn có khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5%, giảm thâm hụt ngân sách, giữ lạm phát ở mức 7- 8%, không gây áp lực quá lớn lên chính sách tiền tệ và giảm xu hướng tích luỹ nguy cơ bất ổn định.