Hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty tham gia vào nghiên cứu, phát triển kỹ thuật và giám sát tình trạng thiết bị. Các kỹ thuật này đã phát triển ở mức độ rất cao. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cũng như các giải pháp kỹ thuật ứng dụng cho các dây chuyền sản xuất cụ thể được các hãng nước ngoài thương mại hoá thành các sản phẩm công nghệ. Do vậy, việc chuyển giao các sản phẩm công nghệ này yêu cầu một chi phí khá lớn, đặc biệt là với các nước có nền công nghiệp đang phát triển như Việt Nam. Muốn áp dụng được các kỹ thuật tiên tiến này vào Việt Nam, các đơn vị nghiên cứu của Việt Nam phải phát huy nội lực, nghiên cứu vận dụng những phương pháp phù hợp nhất với thực trạng nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam.

Đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ kiểm soát, đánh giá trạng thái kỹ thuật của máy móc, thiết bị bằng phương pháp phân tích dao động, nhiệt độ và dầu bôi trơn” của Viện nghiên cứu Cơ khí mới được thực hiện thời gian gần đây đã mở ra những hy vọng cho các nhà máy, xí nghiệp của Việt Nam trong việc đưa công nghệ tiên tiến của thế giới áp dụng vào công tác bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị trong các dây chuyền sản xuất.

Kỹ thuật bảo dưỡng thiết bị ở hầu hết các dây chuyền sản xuất ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là khu vực quốc doanh đều là những kỹ thuật đã cổ điển, lạc hậu, dựa vào kinh nghiệm của người sử dụng là chính. Chủ yếu là sửa chữa thiết bị khi đã xẩy ra hư hỏng, hoặc bảo dưỡng thiết bị theo định kỳ thời gian. Các phương pháp này bộc lộ các nhược điểm như: Gây các hư hỏng bất thường làm dừng toàn bộ dây chuyền sản xuất; Gây bị động trong việc quản lý sản xuất tiêu thụ cũng như công tác quản lý bảo dưỡng; Khối lượng chi tiết thay thế cần chuẩn bị nhiều do không định trước được hư hỏng, gây lãng phí lớn. Do vậy, chi phí bảo dưỡng hàng năm rất lớn, hiệu quả bảo dưỡng cũng không cao. Để giảm được chi phí, tăng năng suất hoạt động của hệ thống thiết bị, việc áp dụng các kỹ thuật bảo dưỡng tiên tiến là một tất yếu khách quan đối với tất cả các dây chuyền sản xuất ở Việt Nam. Cách tiếp cận chính của phương pháp là căn cứ trên các phân tích lý thuyết và điều kiện hoạt động cụ thể của hệ thống thiết bị trong dây chuyền sản xuất. Lựa chọn, đánh giá các ảnh hưởng của thông số được chọn lên hệ thống thiết bị. Xác định các dạng hư hỏng của hệ thống thiết bị thể hiện qua thông số được chọn. Xây dựng cấu hình hệ thống giám sát và chẩn đoán hư hỏng dựa trên việc giám sát và phân tích thông số được chọn. Thực hiện các phân tích, chẩn đoán hư hỏng của hệ thống thiết bị, đặc biệt là một số thiết bị đặc trưng trong các dây chuyền sản xuất như Giấy, Điện, Hoá chất, Ximăng… Và cuối cùng là thiết lập báo cáo tình trạng thiết bị và các phương án khắc phục. Căn cứ các nhu cầu đã phân tích ở trên, mục tiêu chủ yếu của đề tài là nghiên cứu các yếu tố tác động lên hệ thống thiết bị trong quá trình làm việc, nghiên cứu các phương pháp phân tích, đánh giá các yếu tố này, qua đó xây dựng các hệ thống giám sát và chẩn đoán tình trạng thiết bị phù hợp và áp dụng các hệ thống này vào trong các dây chuyền sản xuất thực tế ở Việt Nam.

Đề tài đã được ứng dụng, triển khai trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau như: công nghiệp Giấy, Hoá chất, Điện lực, Xi măng.... Các loại hình ứng dụng cũng rất đa dạng, từ giới thiệu công nghệ đến đào tạo, chuyển giao công nghệ, xây dựng, trang bị hệ thống cũng như các dịch vụ kỹ thuật khác. Viện Nghiên cứu Cơ khí đã tổ chức hội thảo về kỹ thuật giám sát tình trạng thiết bị tại các nhà máy, TCty và Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Sau đó mới triển khai ứng dụng công nghệ tại một số cty như Super Phốt phát và hoá chất Lâm Thao, Giấy Bãi Bằng, các nhà máy Giấy Tissiu Cầu Đuống, Nhiệt điện Phả Lại, Nhiệt điện Bà Rịa Vũng Tàu, Nhiệt điện Ninh Bình, Xi măng Hoàng Thạch, Xi măng Hoàng Mai và một số nhà máy khác....

Qua các kết quả nghiên cứu khi ứng dụng công nghệ trong thực tế đã cho thấy, đề tài đảm bảo độ ổn định và chính xác cao. Trong phần lớn các trường hợp, các kết quả chẩn đoán đều trùng hợp với các hư hỏng trong thực tế.

Có thể nói, các khái niệm về chẩn đoán tình trạng cũng như các hệ thống giám sát và chẩn đoán là sản phẩm của đề tài nghiên cứu lần đầu tiên được nghiên cứu và triển khai tại Việt Nam. Nó có tính năng vượt trội so với các hệ thống sẵn có tại các nhà máy. Ví dụ, với Công ty Giấy Bãi Bằng và Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, sau khi ứng dụng hệ thống này, khả năng giám sát và chẩn đoán lỗi đã tăng lên rõ rệt, rất nhiều hư hỏng đã được phát hiện và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau 3 năm áp dụng triển khai các kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tế, các đơn vị sản xuất đã dần quen thuộc với các khái niệm về giám sát và chẩn đoán tình trạng thiết bị. Các hệ thống giám sát và chẩn đoán tình trạng thiết bị tại các cơ sở sản xuất ngày càng phát huy hiệu quả hoạt động. Các quy trình công nghệ, sản phẩm của đề tài được ứng dụng rất thành công trong thực tế và thể hiện tính ổn định cao. Hiện nay, công tác giám sát và chẩn đoán tình trạng thiết bị đã trở thành một công tác thường xuyên của các nhà máy.

So sánh với các phương pháp nhập ngoại, kết quả nghiên cứu của đề tài khi ứng dụng vào thực tế đã cho thấy giảm tối đa các chi phí đầu tư, đặc biệt trong việc xây dựng hệ thống, chuyển giao công nghệ và triển khai hệ thống trong thực tế. Thông thường, một hệ thống từ khi xây dựng và áp dụng trong thực tế, sau 6 tháng mới bắt đầu phát huy hiệu quả. Việc thay thế các chuyên gia nước ngoài bằng các chuyên gia Việt Nam đã giảm tối đa các chi phí lựa chọn công nghệ, đào tạo và chuyển giao công nghệ. Do đó, chi phí so với phương án nhập ngoại giảm khoảng 50%. Mặt khác, do các chuyên gia Việt Nam rất quen thuộc với hệ thống thiết bị sẵn có của các nhà máy, nên thời gian thực hiện và chất lượng ứng dụng của hệ thống sẽ tăng lên rất nhiều so với phương án nhập ngoại.

Có thể nói, với việc ứng dụng thành công đề tài ‘Nghiên cứu quy trình công nghệ kiểm soát, đánh giá trạng thái kỹ thuật của máy móc, thiết bị bằng phương pháp phân tích dao động, nhiệt độ và dầu bôi trơn” của Viện Nghiên cứu Cơ khí, các nhà sản xuất trong nước từ nay sẽ không còn lo ngại khi phải chi ra những khoản chi phí lớn cho việc bảo dưỡng thiết bị trong các dây chuyền sản xuất. Việc áp dụng thành công kỹ thuật này vào Việt Nam không chỉ đem lại những hiệu quả kinh tế cao, nó còn phát huy được nội lực của ngành Cơ khí khi chúng ta đang chuẩn bị hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới.