Từ ngày 07/2/1965, Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc, kéo dài đến 01/01/1968. Tiếp đến, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai từ 6/4/1972, đến ngày 30/12/1972 .
Trong chiến tranh phá hoại, các xí nghiệp công nghiệp và hệ thống giao thông vận tải huyết mạch là những mục tiêu hàng đầu của không quân Mỹ. Theo thống kê, hầu hết các khu công nghiệp, 100% các nhà máy điện, có 345 xí nghiệp bị đánh phá nặng nề (cuộc chiến tranh phá hoại lần đầu có 225 xí nghiệp và lần thứ hai có 120 xí nghiệp).
Đứng trước một thử thách khắc nghiệt khi không quân Mỹ tăng cường bắn phá miền Bắc, ngành Công Thương bước vào cuộc chiến đấu mới, vừa xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện cho miền Nam, phục vụ sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong cuộc không chiến ác liệt, chỉ riêng bầu trời miền Bắc và con đường huyền thoại Trường Sơn đã phải chịu 5 triệu tấn bom, mìn, hóa chất các loại, nhiều gấp 2 lần rưỡi số bom không quân Mỹ rải xuống trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
Từ tháng 6/1966, Nhà máy cơ khí Hà Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm lên Hà Bắc (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang); Nhà máy Dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục. Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Xí nghiệp dược phẩm 1,2, Nhà máy in Tiến Bộ... có hàng chục nghìn công nhân viên chức cùng người thân được sơ tán ra khỏi nội thành.
Trong cuộc chiến vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, các cơ sở công nghiệp và thương mại thành lập các đội tự vệ, sẵn sàng đương đầu với các cuộc tập kích đường không, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động sản xuất thời chiến.

Ngành Điện với khẩu hiệu: “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”; “Địch đánh ta phục hồi, địch lại đánh ta lại phục hồi” đã ăn sâu vào tiềm thức cán bộ công nhân viên. Thực tế, nhiều nhà máy điện đã bị bom đạn giặc Mỹ tàn phá tan hoang. Trong điều kiện đó, nhiều sáng kiến đã ra đời. Để tránh thương vong, Nhà máy Nhiệt điện Thái Nguyên đã làm ống trượt chui vào hầm trú ẩn nhằm “thoát nhanh” khi có máy bay địch ném bom. Sáng kiến này đã được áp dụng ở nhiều nhà máy điện trong suốt cuộc chiến tranh chống máy bay Mỹ. Khi trạm bơm tuần hoàn Nhà máy Điện Việt Trì bị phá hỏng, cán bộ công nhân viên đã tự thiết kế, lắp đặt trạm bơm số 2 cách đó khoảng 800m, rút ngắn thời gian phục hồi và hạn chế phạm vi đánh phá của máy bay địch.
Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” (đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom) ra đời và đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - Công nhân Nhà máy Điện Uông Bí. Ống khói ngầm khiến cho máy bay Mỹ tưởng Nhà máy đã “chết”, không thể hình dung nổi dưới đống đổ nát, hoang tàn, Nhà máy vẫn phát điện, trái tim của hệ thống điện miền Bắc vẫn đập với sức sống diệu kỳ.

Khu Gang thép Thái Nguyên, một trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, những năm tháng ấy đã thành lập lực lượng tự vệ ở tất cả các cơ quan, đơn vị. Các đơn vị tự vệ được trang bị súng phòng không, sau này còn có pháo cao xạ 37mm, góp phần cùng Bộ đội chính quy Trung đoàn 256 - Quân khu Việt Bắc giăng lưới lửa khi máy bay địch đánh phá Thái Nguyên, tấn công Nhà máy. Từ năm 1966 đến cuối năm 1972, không quân Mỹ đã huy động hơn 1.700 lần trong đó 42 lần có máy bay B52 với 115 trận đánh phá, thả gần 3.000 quả bom các loại xuống Khu Gang thép Thái Nguyên, nhưng không thể đạt được mục đích phá hoại nhà máy, làm ngưng trệ sản xuất. Công nhân, đội “tự vệ thép” với khẩu hiệu “ Bám máy, bám lò” sẵn sàng “ đổi máu lấy thép” đã di chuyển phân xưởng, dây chuyền ra khỏi mục tiêu, vừa sản xuất, vừa anh dũng chiến đấu. Những mẻ gang vẫn ra lò đi khắp mọi miền Tổ quốc. Trên bầu trời Gang thép đã có 59 máy bay bị bắn hạ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ.
Xăng dầu, nguồn năng lượng cho nền kinh tế cũng là mục tiêu đánh phá số 1. Trong cuốn Biên niên sử của Công an Thủ đô đã ghi lại chi tiết kế hoạch của quân địch: “Ném bom các khu dự trữ xăng dầu của Bắc Việt Nam sẽ gây tổn hại nhiều hơn đến khả năng vận chuyển các đồ chi viện chiến tranh ở trong nước và các đường vào Nam Việt Nam hơn là bắn phá bất kỳ một hệ thống riêng biệt nào”. Tổng kho Xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng là đầu mối duy nhất tiếp nhận xăng dầu cung ứng cho miền Bắc, chi viện cho tiền tuyến miền Nam và một phần cho nước bạn Lào. Trong suốt 7 năm (từ 1966- 1972), Mỹ đã đánh phá Tổng kho xăng dầu Thượng Lý 98 trận với hơn 4 nghìn quả bom các loại, hàng chục trận B52 hủy diệt, hàng chục trận bắn phá các kho phân tán ở Hải Phòng, Hải Hưng, Quảng Ninh.
Trong căn Phòng Truyền thống của Petrolimex Hải Phòng còn trân trọng lưu giữ những kỷ vật của một thời “quý xăng như máu”: Chiếc búa của Liệt sỹ Nguyễn Văn Mậu dùng đánh kẻng báo động trận đánh phá đầu tiên của giặc Mỹ ngày 29/6/21966 tại Kho Xăng dầu Thượng Lý; những chiếc nút gỗ được hai công nhân Đỗ Khắc Xuôi và Nguyễn Văn Dần dũng cảm vít lại những lỗ thủng ở các bể dầu Kho 2 trong trận ngày 29/6/21966 để tránh bị tràn dầu, gây cháy nổ; những vỏ đạn của khẩu súng 12 ly 7 đã bắn rơi chiếc máy bay AD6 của giặc Mỹ đêm 19/12/1972; khẩu súng trường K44 được Liệt sỹ Mạc Văn Cầu dùng đánh trả máy bay Mỹ ngày 11/8/1967 tạai Kho Dầu chùa Minh - An Hải - Hải Phòng…
Tại Tổng Kho xăng dầu Đức Giang, những trận chiến khốc liệt ngày 29/6/1966 và 16/4/1972 đã đi vào trang sử oanh liệt của Petrolimex Hà Nội. Đội trưởng Bảo vệ Trương Xuân Lợi và Đội phó Bảo vệ Lê Xuân Ba đã anh dũng hy sinh bên cạnh biết bao tấm gương dũng cảm chiến đấu “cứu xăng dầu” của cán bộ công nhân viên - người lao động Tổng kho Xăng dầu Đức Giang cũng đang được trân trọng lưu giữ tại Phòng Truyền thống Petrolimex Hà Nội.
Trong hai lần chiến tranh phá hoại do không quân Mỹ tiến hành, vùng mỏ Quảng Ninh đã trải qua 1.500 ngày trực tiếp đối mặt với các cuộc oanh kích. Trong 1.500 ngày đêm ấy, không quân Mỹ đã đánh vào vùng mỏ Quảng Ninh 2.340 trận, rải 28.531 quả bom, mìn, thủy lôi các loại, gây thiệt hại về tài sản hết sức nặng nề cho các mỏ than.
Ngay cả công nghiệp nhẹ - ngành hàng sản xuất hàng tiêu dùng cũng nằm trong số mục tiêu phá hoại của không quân Mỹ. Và khi đó, những đôi tay mềm mại quen nối chỉ, xe sợi, cầm thoi, dệt vải… của chị em công nhân Nhà máy Dệt 8-3 đã buộc phải cầm súng. Hệ thống phòng không được triển khai nhanh chóng. Từ các cửa phân xưởng, hệ thống hào giao thông được xây bằng gạch chắc chắn, đường hào chữ chi chạy xung quanh nhà máy; khi có báo động, công nhân xách súng chạy theo hào giao thông đến trận địa. Năm 1966, nhà máy tổ chức được một tiểu đoàn tự vệ gồm 5 đại đội, 134 trung đội, 2 tiểu đội trực thuộc; bộ phận hành chính tổ chức các đội công binh, hóa học, cứu sập, cứu thương, thông tin liên lạc… Phối hợp với trận địa cao xạ của Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô, tự vệ nhà máy bố trí lưới lửa theo hai tuyến: tuyến trên cao gồm 8 tổ súng trường, 2 đại liên, 1 trung liên, đặt trên nóc phân xưởng đay, sợi, dệt. Tuyến mặt đất gồm 7 tổ, bố trí trận địa ở phân xưởng Nhuộm, Thoi suốt, Cơ khí. Đội hình chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ với trận địa của Nhà máy Cơ khí Mai Động, Nhà máy Kẹo Hải Châu, Nhà máy Xay Lương Yên, tạo thành lưới lửa phía Đông Nam thành phố.

Với Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định, có ngày Mỹ ném bom 2-3 trận. Vì vậy thời gian này nhiều người gọi Nhà máy là “Cồn Cỏ của Thành Nam”. Từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1972, máy bay Mỹ đã gây ra hậu quả rất nặng nề: phá hủy 22% thiết bị máy móc và 70% nhà xưởng, 151 cán bộ, công nhân viên chức hy sinh, 197 người bị thương.
Để bảo vệ sản xuất, Nhà máy thành lập 1 tiểu đoàn tự vệ (gồm 3 đại đội) và 1 trung đội trực chiến lưu động gồm 283 cán bộ chiến sỹ trong đó có 131 là nữ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh đội. “Đội bom mà sản xuất” là hình ảnh công nhân nhà máy Dệt thời kỳ này. Vừa hăng hái sản xuất, lực lượng nhà máy còn tham gia chiến đấu tất cả các trận cùng quân và dân thành phố, đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ. Có trận tự vệ nhà máy bổ sung, tăng cường 18 pháo thủ cho một đơn vị pháo cao xạ của bộ đội trên địa bàn thị xã Phủ Lý. Không chỉ nam công nhân tham gia chiến đấu mà các chị em công nhân cũng rất anh dũng trên mọi mặt trận, nhiều chị đã hy sinh khi tuổi đời còn trẻ, như chị Vũ Thị Minh Nguyệt, Đảng viên Đảng bộ nhà máy Dệt Nam Định, chị đã cùng đồng đội đánh trả máy bay Mỹ 21 trận, trận thứ 22 chiến đấu bảo vệ cầu Phủ Lý, diễn ra vào chiều ngày 7/7/1967, chị bị thương nhưng không cho đồng đội biết, vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

Trong những trận quyết chiến bảo vệ sản xuất, bảo vệ nguồn lực của hậu phương miền Bắc để chi viện cho miền Nam, cán bộ, người lao động ngành Công Thương đã ghi nhiều chiến công vào trang vàng lịch sử của dân tộc. Trên bầu trời Khu Gang thép Thái Nguyên có 59 máy bay bị bắn hạ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ; Ngày 10/12/1967, chị Lưu Thị Xuân cùng tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ, ngày 13/8/1968, tự vệ 8-3 chỉ với 14 viên đạn 12 ly 7, lại bắn rơi một máy bay không người lái; tháng 7/1968, đội tự vệ của May 10 hiệp đồng với đơn vị bạn bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội; ngày 7/2/1972, lực lượng tự vệ của Đèo Nai đã anh dũng chiến đấu và bắn rơi được 1 máy bay Mỹ, góp phần vào thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của Vùng mỏ trên bầu trời miền Bắc; ngày 10/5/1972 tự vệ Nhà máy Điện Yên Phụ bắn rơi 1 máy bay F4; tự vệ Nhà máy Phân lân Văn Điển bắn rơi một máy bay F4 của Mỹ ngày 27/6/1972; tự vệ Kho xăng dầu Thượng Lý bắn rơi chiếc máy bay AD6 của Mỹ đêm 19/12/1972; đêm ngày 22/12/1972, tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động phối hợp với tự vệ Nhà máy Dệt kim Đông Xuân Hà Nội bắn rơi 1 chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe”… Những chiến công đó, không những bảo đảm cho dòng điện, nguồn xăng dầu, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng lưu thông mạnh mẽ trên thị trường, mà còn góp phần cùng quân và dân miền Bắc đập tan các cuộc tập kích đường không chiến lược của không lực Hoa Kỳ.
Mặc dù đã sơ tán những phân xưởng, thậm chí cả nhà máy công nghiệp quan trọng ra khỏi đô thị, và bảo vệ khá hữu hiệu cơ sở sản xuất, nhưng sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, do phải huy động một lực lượng lao động trẻ khỏe vào chiến trường. Mặt khác, tình trạng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu trầm trọng, các thiết bị máy móc bị đánh phá hư hỏng chưa kịp sửa chữa hoặc sửa chữa vội vã không đảm bảo an toàn, sự cố thường xảy ra. Do đó, mức sản xuất công nghiệp bị giảm sút trong cuộc chiến tranh phá hoại đường không lần thứ nhất, đặc biệt những ngành là trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ.
Thời kỳ 1965-1970 sản lượng điện từ 633,6 triệu kWh giảm xuống 501 triệu kWh, than từ 4,2 triệu tấn giảm xuống 2,7 triệu tấn, máy cắt gọt kim loại từ 1.866 cái giảm xuống 1.857 cái, xi măng từ 573 ngàn tấn giảm xuống 524 ngàn tấn, vải từ 100,3 triệu mét giảm xuống 89,4 triệu mét… Tính theo tỷ lệ, những sản phẩm giảm nhiều trong khoảng từ 30-50%. Những sản phẩm tăng lên chủ yếu thuộc công nghiệp địa phương do chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương Đến năm 1971 (năm cuối cùng của thời kỳ 3 năm khôi phục sau chiến tranh), việc thực hiện kế hoạch sản xuất đã có tiến bộ hơn, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tăng 14% so với kế hoạch đề ra, cụ thể công nghiệp trung ương tăng 17,5% và công nghiệp địa phương tăng 11,2%, nhìn chung, đã vượt so với mức trước chiến tranh 2,7%. Các sản phẩm quan trọng như điện, than, supe lân, vải, giấy... đều vượt kế hoạch.
Công cuộc khôi phục đang tiến hành được 3 năm thì vào giữa năm 1972 lại bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Tuy chiến tranh phá hoại lần này chỉ kéo dài chưa đầy 1 năm, nhưng mức độ hủy diệt của nó bằng cả 4 năm của lần trước cộng lại.
Ngay khi chiến tranh leo thang vừa chấm dứt, ngày 23/1/1973 ký tắt Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, thì ngày 24/1/1973, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 200-CT/TW, yêu cầu mỗi cấp chính quyền và ngành kinh tế phải nắm chắc, giải quyết nhanh và có hiệu quả các vấn đề về ổn định sản xuất. (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, trang 440).

Công cuộc khôi phục và phát triển công nghiệp lần này tập trung vào một số ngành cơ bản như các ngành sản xuất vật liệu xây dựng và năng lượng; phát triển các ngành cơ khí chế tạo xà lan, tầu kéo, sửa chữa ô tô, xe máy phục vụ cho khôi phục giao thông vận tải; sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; ngoài ra, đẩy mạnh các ngành khai thác cá, muối, nước mắm...
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản công nghiệp trong 3 năm (1973-1975) 3 tỷ đồng, gấp hơn 1,2 lần so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của 6 năm trước (1965-1971); Những ngành đã thực hiện khôi phục và cải tạo tốt là điện, than, vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa và đóng mới phương tiện vận tải, sản xuất phụ tùng phụ kiện cho khôi phục và phát triển kinh tế.
Nhờ đẩy nhanh tốc độ khôi phục, cải tạo và xây dựng mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật và năng lực sản xuất của ngành Công nghiệp miền Bắc năm 1975 chẳng những đã được khôi phục mà còn tăng lên đáng kể, không những chỉ thay đổi về lượng mà còn có thay đổi về chất.

Ngọc Thu
(Theo Lịch sử Công Thương Việt Nam 1945-2010 NXB Chính trị Quốc gia Sự thật 2023)