“Lấp” khoảng trống thương hiệu Việt, khai thác tối đa thị trường CPTPP
12/10/2023 lúc 17:00 (GMT)

“Lấp” khoảng trống thương hiệu Việt, khai thác tối đa thị trường CPTPP

 

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ ngày 14/01/2019, được kỳ vọng là bước ngoặt tạo ra xung lực mới, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các nước đối tác thành viên.

Sau hơn 4 năm thực thi, CPTPP đã đem lại tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng cho Việt Nam, là động lực mở đường cho hàng hóa Việt Nam sang các thị trường tiềm năng và mới mẻ.

thương hiệu Việt

 

Để đánh giá việc doanh nghiệp tận dụng Hiệp định CPTPP, cần tập trung đánh giá 3 thị trường chúng ta chưa có FTA khi CPTPP có hiệu lực, đó là Canada, Mexico và Peru. Các thành viên còn lại Việt Nam đã có quan hệ FTA song phương như Nhật Bản, đa phương như Australia, New Zealand, Singapore hay Malaysia.

Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) nhận định: “Nếu nhìn vào hai thị trường Canada, Mexico, kể từ khi thực thi CPTPP đã có sự tăng trưởng rất đáng khích lệ, kể cả trong thời kỳ Covid-19 hay thời kỳ có những biến động về địa chính trị trên thế giới thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của chúng ta sang hai thị trường này luôn ở hai chữ số. Ngoài ra thặng dư thương mại chúng ta có được từ hai thị trường này thường chiếm từ 1/3 cho đến 1/2 thặng dư thương mại của các quốc gia”.

Ngay cả với thị trường Peru thường được cho là thị trường khiêm tốn nhưng thực tế dư địa tăng trưởng rất cao, có những năm tăng trưởng đến ba chữ số. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tích cực các cơ hội từ CPTPP mang lại.

Canada là thị trường chưa có FTA với Việt Nam trước khi có CPTPP là minh chứng rõ nhất cho sự tăng trưởng nhờ Hiệp định này. Theo số liệu của cơ quan chức năng Canada, trong năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam sang địa bàn này tăng 26,4% về giá trị kim ngạch so với năm 2021. Tính chung sau gần 5 năm thực thi CPTPP, xuất khẩu của Việt Nam sang Canada tăng hơn gấp đôi, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2018 lên 9,9 tỷ USD năm 2022.

Còn theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, giá trị xuất khẩu của chúng ta sang Canada cũng tăng tới 110% sau gần 5 năm, là thị trường tỷ USD có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất trong nhóm các nước CPTPP. Với mức tăng trưởng xuất khẩu cao, hiện nay, Việt Nam đã trở thành đối tác nhập khẩu lớn thứ bảy của Canada và Canada cũng là nước chúng ta có thặng dư thương mại rất lớn, lên đến trên 9 tỷ USD.

Thực tế cho thấy, sau khi thực thi CPTPP, xuất khẩu của những mặt hàng hưởng thuế bằng 0% như: điện thoại, điện tử, điện máy hay kim loại cơ bản, thủy sản, rau củ quả, kể cả các sản phẩm khác như gạo điều, chè, cà phê… sang thị trường Canada đều có sự tăng trưởng đột biến, có những mặt hàng tăng đến 1000%.

Điều này cho thấy Hiệp định CPTPP như một “đòn bẩy” giúp các doanh nghiệp của hai nước quan tâm hơn đến cơ cấu các sản phẩm và thị trường của nhau, từ đó gián tiếp thúc đẩy xuất khẩu cả những mặt hàng không có lộ trình giảm thuế.

          
Trần Thu Quỳnh

         CPTPP còn có tác động tích cực mà chúng tôi gọi là hiệu ứng lan tỏa, tức là thúc đẩy sự phát triển hơn của chuỗi cung ứng, vận tải, logistics… giữa hai nước.

Bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán thương mại Thương vụ Việt Nam tại Canada

          

 

tít xen 2

 

Mặc dù đạt được những kết quả tích cực từ việc thực thi CPTPP, song tỷ trọng hàng hóa của Việt Nam tại các thị trường CPTPP trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được như kỳ vọng. Dư địa để hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn nữa vào các thị trường mới như Canada, Mexico và Peru còn rất lớn, có những mặt hàng của Việt Nam hiện mới chỉ chiếm thị phần khoảng 3%-5%.

Mặt khác, dù số lượng và giá trị xuất khẩu tăng đều qua từng năm nhưng hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường CPTPP còn khá khiêm tốn. Người tiêu dùng đã biết đến cà phê Việt Nam, gạo Việt Nam... song mới chỉ biết đến một số ít thương hiệu cụ thể như: gạo AN AN của Tân Long, dừa sinh thái của Công ty Dừa Lương Quới Bến Tre…, trong khi nhiều thương hiệu Việt chưa xuất hiện trên các kệ siêu thị hay trong tâm trí của người tiêu dùng các nước CPTPP, đặc biệt là các thị trường mới. Nhiều sản phẩm hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này vẫn còn mang thương hiệu nước ngoài.

Chia sẻ thông tin này, bà Trần Thu Quỳnh cho biết, riêng tại địa bàn Canada, mặc dù tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan CPTPP của hàng xuất khẩu Việt Nam qua 5 năm tăng đều nhưng khoảng 4 tỷ USD, tức khoảng 60% các sản phẩm được hưởng thuế CPTPP bằng 0 chúng ta vẫn chưa tận dụng được, trong khi đó mức độ chênh lệch về thuế giữa MFN với CPTPP hay giữa GSP với CPTPP khá lớn.

Thêm vào đó, mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của chúng ta sang địa bàn khá cao, tuy nhiên theo ước tính có đến trên 60% xuất khẩu của chúng ta sang địa bàn là các sản phẩm của khu vực FDI có thương hiệu riêng, trong khi khu vực công nghiệp nội địa của chúng ta xuất khẩu sang địa bàn chủ yếu vẫn là xuất thô hoặc gia công. Các mặt hàng như giày dép, quần áo, đồ chơi, gốm sứ, hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa… đều là những sản phẩm chúng ta có thể phát triển theo hướng thương hiệu riêng, nhưng đến nay các sản phẩm thương hiệu Việt Nam vẫn chưa có mặt nhiều tại Canada.

Thực tế này đặt ra yêu cầu làm thế nào để nâng tỷ lệ hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam và khai thác hiệu quả hơn Hiệp định CPTPP.

Trao đổi về nguyên nhân thương hiệu Việt còn khiêm tốn tại thị trường nước ngoài nói chung, thị trường CPTPP nói riêng, ông Ngô Chung Khanh cho rằng, doanh nghiệp vẫn ngại xây dựng thương hiệu và có doanh nghiệp chấp nhận theo kiểu “an phận thủ thường”.

Ông Khanh chia sẻ câu chuyện thực tế trao đổi với một doanh nghiệp lớn chuyên xuất khẩu hạt điều. Khi được hỏi tại sao không làm hàng thương hiệu riêng, lãnh đạo doanh nghiệp này cho biết đơn vị chuyên làm hàng gia công theo đơn đặt hàng của nhà nhập khẩu, dán nhãn mác của họ là đủ. Bởi vì số lượng nhà nhập khẩu đặt rất lớn nên doanh nghiệp không có động lực để làm thêm hàng thương hiệu nữa.

Bên cạnh đó, thiếu nguồn lực tài chính cũng là lý do khiến nhiều doanh nghiệp “ngại” làm thương hiệu trong khi để làm thương hiệu phải có nguồn lực về nhiều yếu tố như: tài chính, nhân lực, kiến thức, kinh nghiệm, tư duy chiến lược...

Ngoài ra là những khó khăn để kết nối vào chuỗi cung ứng của đối tác nếu không có sự hỗ trợ, giúp sức của các cơ quan chức năng.

giày dép
thủy sản
ngành gỗ
dệt may
tít xen 3

 

Vinasamex: Tăng độ phủ của thương hiệu riêng trên các kệ siêu thị thế giới

Chia sẻ về kinh nghiệm xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Huyền, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Sản xuất và Xuất khẩu Quế Hồi Việt Nam Vinasamex nhận định, xây dựng được thương hiệu, nhãn hiệu riêng là con đường không hề đơn giản, cần rất nhiều kiên trì và quyết tâm.

Từ năm 2007, sau những lần tham gia hội chợ quốc tế nhưng khách hàng không biết Việt Nam có quế, hồi và những loại gia vị khác của Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh so với những nguồn cung khác, Vinasamex xác định sứ mệnh làm ra sản phẩm thực sự tốt bán ra nhiều thị trường qua đó khẳng định một đại diện thương hiệu Việt Nam mang nông sản và gia vị hữu cơ Việt Nam ra thế giới.

Vinasamex đã phải nghiên cứu, thay đổi chiến lược, định hướng kinh doanh của mình. Từ năm 2013 Vinasamex bắt đầu xây dựng chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm hữu cơ, đào tạo cho người nông dân và đăng ký những chứng nhận quốc tế là giấy thông hành giúp Vinasamex có thể bán được sản phẩm vào những thị trường khắt khe và khó tính về mặt tiêu chuẩn chất lượng.

Với quan điểm có thể sản lượng sản phẩm mang thương hiệu riêng chưa nhiều so với những mặt hàng khác doanh nghiệp đang kinh doanh, tuy nhiên từng bước sẽ giúp cho việc tăng độ phủ rộng thương hiệu đối với khách hàng trên toàn thế giới, Vinasamex đã xây dựng thêm hai thương hiệu nhỏ là Spice fest và Cinna kitchen tập trung vào 4 thị trường chính: Châu Âu, Mỹ và Canada; Nhật Bản và Hàn Quốc (trong đó Canada và Nhật Bản là các thị trường thuộc khối CPTPP).

“Đây là 4 thị trường có yêu cầu rất khắt khe và khó tính về mặt tiêu chuẩn chất lượng, nhưng chúng tôi nghĩ rằng đó là một con đường phát triển bền vững cho doanh nghiệp”, bà Huyền nhấn mạnh và cho biết: Một trong những hướng đi Vinasamex thực hiện là nghiên cứu làm sao đưa hàng hóa với thương hiệu của mình lên các kệ siêu thị. Đầu tiên xác định sẽ làm gì, cần chuẩn bị những chứng nhận gì, không đơn thuần là chứng nhận về mặt tiêu chuẩn chất lượng mà cả những chứng nhận siêu thị yêu cầu. Thứ hai cần làm việc với những người có quyền quyết định để đưa hàng lên kệ siêu thị đó. Bởi các kệ siêu thị đã có rất nhiều thương hiệu rồi, mình là thương hiệu ra sau cần làm gì để có sự khác biệt hóa thương hiệu.

Đến nay, các sản phẩm quế, hồi và gia vị mang thương hiệu của Vinasamex đã khẳng định được vị trí tại những thị trường cao cấp, trở thành bạn hàng, đối tác cung cấp cho nhiều thương hiệu trà, rượu, nhà hàng… nổi tiếng thế giới.

 

Theo ông Ngô Chung Khanh, xây dựng thương hiệu giúp tận dụng tốt hơn những cơ hội và giá trị do FTA mang lại, trong đó có Hiệp định CPTPP.

Về quan điểm tiếp cận, ông Khanh cho rằng, các doanh nghiệp không nên cứng nhắc mà nên xác định đi bằng cả hai chân: sản xuất theo đơn hàng, thương hiệu của đối tác/nhà nhập khẩu và xây dựng thương hiệu riêng của mình. Bởi các đơn hàng mang tính chất gia công sẽ giúp doanh nghiệp duy trì ổn định sản xuất, đảm bảo việc làm cho người lao động…; nhưng về dài hạn cần xây dựng một thương hiệu riêng để gia tăng giá trị cho sản phẩm, uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới.

 

Đồng quan điểm này, bà Trần Thu Quỳnh cho rằng, có nhiều yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn phát triển thương hiệu riêng tại Canada bởi nền kinh tế mở, nhu cầu nhập khẩu cao, thị hiếu tiêu dùng đa dạng...

Tuy nhiên không có con đường giống nhau cho tất cả mọi doanh nghiệp và ngành hàng trong câu chuyện xây dựng thương hiệu riêng. Một số sản phẩm có thể sản xuất gia công theo nhãn hàng của các chuỗi siêu thị, các nhà nhập khẩu phân phối lớn để tiếp cận thị trường một cách bền vững và có đơn hàng ổn định.

Đối với các doanh nghiệp phát triển những dòng sản phẩm có tính sáng tạo cao, có tính riêng, tính mới như ngành hàng thực phẩm chế biến, hay lĩnh vực dịch vụ như dịch vụ xây dựng, dịch vụ nhượng quyền thương mại, dịch vụ viễn thông, dịch vụ công nghệ thông tin… nên xây dựng thương hiệu riêng một cách bài bản. Các ngành công nghiệp có thế mạnh về công nghệ sản xuất, chủ động nguồn nguyên vật liệu như hàng may mặc thời trang, giày dép, túi xách… nên mạnh dạn đầu tư phát triển thương hiệu riêng, nhằm khai thác những phân khúc thị trường thay đổi nhanh, thị hiếu tiêu dùng còn rất nhiều tiềm năng và có biên độ lợi nhuận cao.

Điều quan trọng trong câu chuyện phát triển thương hiệu riêng là “buôn có bạn bán có phường”, các doanh nghiệp cần đi chung với nhau và đồng hành với các hiệp hội ngành hàng để cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường theo từng giai đoạn”, bà Trần Thu Quỳnh khuyến nghị.

cà phê
gạo xuất khẩu

Bà Trịnh Huyền Mai, Phó Trưởng phòng Chính sách xúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương cho biết, thời gian qua phát triển thương hiệu luôn được kết hợp triển khai trong các chương trình xúc tiến tổng hợp đa ngành và có quy mô lớn tại trong nước và nước ngoài với với cả 3 cấp độ quốc gia, cấp độ ngành hàng cũng như cấp độ doanh nghiệp, sản phẩm.

Riêng đối với xuất khẩu bằng thương hiệu riêng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành hàng, doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay đã có một số sản phẩm made in Việt Nam đi ra nước ngoài bằng thương hiệu riêng như Cà phê Trung Nguyên, sữa Vinamilk, dịch vụ viễn thông Viettel, ô tô Vinfast….

Những kết quả đấy có sức lan tỏa rất tích cực đối với các thị trường tiềm năng, trong đó có các quốc gia thành viên CPTPP, qua đó tạo động lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành hàng, doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam gia tăng thị phần và giá trị thương hiệu ở những thị trường truyền thống, đồng thời thâm nhập các thị trường mới”, bà Mai nhận định.

 
Trịnh Huyền Mai

Xây dựng thương hiệu và xuất khẩu bằng thương hiệu riêng không phải là câu chuyện của tất cả các doanh nghiệp. Vấn đề này chỉ dành cho các doanh nghiệp thực sự có tiềm lực, có khả năng, có sự hiểu biết về thị trường và có một chiến lược bài bản.

Bà Trịnh Huyền Mai, Phó Trưởng phòng Chính sách xúc tiến thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương

Trên thực tế, doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm phải đảm bảo được chất lượng, đảm bảo tính ổn định cũng như thường xuyên nắm bắt được thị hiếu của thị trường, từ đó mới giữ được khách hàng, giữ được thị trường và giữ được uy tín của thương hiệu của mình đối với nhà nhập khẩu, cũng như người tiêu dùng quốc tế.

Để gia tăng phát triển thương hiệu Việt tại thị trường nước ngoài hiệu quả, về góc độ xúc tiến thương mại, bà Trịnh Huyền Mai cho rằng doanh nghiệp nên chủ động gia tăng giá trị sản phẩm thông qua việc cải tiến thường xuyên chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm cho phù hợp với thị trường đích, nhất là lưu ý những vấn đề mà thị trường đang rất quan tâm như chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại do các bộ, ngành, hiệp hội triển khai và tận dụng được uy tín của thương hiệu quốc gia, thương hiệu ngành hàng, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể của Việt Nam khi thâm nhập các thị trường mới.

Bên cạnh đầu tư thật bài bản về chiến lược thương hiệu, các kế hoạch truyền thông định kỳ, doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến việc đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm thương hiệu sản phẩm của mình ở thị trường nước ngoài.

Ở góc độ cơ quan chức năng, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ các hiệp hội xây dựng chiến lược cạnh tranh của thương hiệu ngành, xây dựng và quảng bá những chỉ dẫn địa lý của ngành. Qua đó không chỉ quảng bá mà còn phát triển, bảo vệ các thương hiệu của mình tại thị trường thế giới.

made in vietnam

Bài: Việt Hằng
Ảnh bìa và thiết kế: Duy Kiên - Maika


Trang chủ

Bài mới

Xem nhiều

Multimedia

Tạp chí