Ngành công nghiệp hỗ trợ đã có những gam màu tươi sáng hơn
Trao đổi tại Tọa đàm “Gia tăng hàm lượng công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ” của Tạp chí Công Thương, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, trong những năm qua, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những gam màu tươi sáng hơn so với trước đây.
Cả nước hiện có gần 7.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, tập trung chủ yếu ở 5 lĩnh vực chính gồm cơ khí, ô tô, điện - điện tử, dệt may và công nghệ cao. Trong số này, gần 300 doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI lớn như Samsung, Honda, Toyota, LG.
Một số doanh nghiệp trong nước đã làm chủ được quy trình sản xuất, đặc biệt là những sản phẩm, linh kiện có biên dạng phức tạp, đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như khuôn mẫu hay linh kiện nhựa, kim loại kỹ thuật.
Tuy nhiên, ông Cường cũng thẳng thắn nhìn nhận tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành vẫn còn thấp, chỉ đạt khoảng 30 - 40%, chưa đạt được kỳ vọng 50 - 60% mà Chính phủ đề ra. Năng lực cạnh tranh về giá chưa cao, trình độ khoa học - công nghệ của doanh nghiệp còn ở mức trung bình, khả năng ứng dụng nghiên cứu khoa học và phát triển sản phẩm mới còn yếu.
Đây là những nguyên nhân khiến doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa đủ năng lực để cung cấp linh kiện, phụ tùng có hàm lượng công nghệ cao đáp ứng các tiêu chuẩn trong chuỗi sản xuất hiện đại.
Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và nâng chất lượng nguồn nhân lực
Trước thực tế đó, Bộ Công Thương đã và đang triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực công nghệ, chất lượng nhân lực và khả năng tham gia chuỗi giá trị. Theo ông Chu Việt Cường, Bộ đã xây dựng Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến nay, cụ thể hóa bằng hàng trăm doanh nghiệp tham gia các dự án tư vấn cải tiến sản xuất, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ, sản xuất thử nghiệm và phát triển sản phẩm mới.
Bộ cũng đã thành lập và đầu tư cho các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp đóng vai trò như “bà đỡ” cho doanh nghiệp, tiêu biểu là Trung tâm IDC. Các trung tâm này được Nhà nước trang bị máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ gia công, thử nghiệm, tiêu chuẩn hóa quy trình và đánh giá chất lượng sản phẩm, từ máy gia công 3 trục, 5 trục độ chính xác cao đến thiết bị kiểm tra không phá hủy X-ray, máy kéo - nén, máy phân tích vật liệu, máy đo độ nhám. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể đến Trung tâm IDC để thử nghiệm sản phẩm, kiểm tra xem đã đạt tiêu chuẩn quốc tế hay chưa.
Song song với đó, Bộ Công Thương phối hợp với các tập đoàn FDI lớn như Samsung và Toyota nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng.
“Từ năm 2016 đến nay, chúng tôi đã cùng Tập đoàn Samsung đào tạo, tư vấn cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng giải pháp chuyển đổi số như nhà máy thông minh cho hàng trăm doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Một số doanh nghiệp như Nhựa An Lập, Nhựa Vân Long hay Ama Holdings đã từ nhà cung cấp cấp 2 trở thành vendor cấp 1 của Samsung”, ông Cường chia sẻ.
Theo ông, việc trở thành nhà cung cấp cấp 1, cấp 2 của tập đoàn lớn là một quá trình dài, có thể mất 4 - 5 năm, nhưng nếu kiên trì với lộ trình này, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể “chen chân” vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

“Gia tăng hàm lượng công nghệ là lối thoát duy nhất”
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam khẳng định, gia tăng hàm lượng công nghệ là yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp.
“Hiện chúng ta chịu sức ép cạnh tranh rất lớn, không chỉ trong nước mà còn từ các nhóm sản xuất khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Malaysia. Nếu vẫn loanh quanh trong gia công giá rẻ, chắc chắn doanh nghiệp Việt sẽ gặp vấn đề lớn trong thời gian tới. Gia tăng hàm lượng công nghệ chính là lối thoát duy nhất”, ông Hùng nhấn mạnh.
Theo ông Hùng, Smart Việt Nam tập trung vào ba yếu tố cốt lõi: đầu tư theo chiều sâu, chuẩn hóa quy trình toàn diện và xây dựng văn hóa chất lượng. Ngay từ khi định hướng tham gia ngành công nghiệp chế tạo và công nghiệp phụ trợ, Smart Việt Nam đã đặt mục tiêu trở thành doanh nghiệp đầu ngành trong xuất khẩu các sản phẩm cơ khí chính xác. Doanh nghiệp đầu tư mạnh vào máy móc hiện đại của Đức, Nhật Bản, sử dụng phần mềm đặc thù để số hóa quy trình sản xuất, truyền tải dữ liệu nội bộ chính xác, hạn chế tối đa sai lỗi.
“Chúng tôi xây dựng văn hóa chất lượng để mọi nhân viên đều có trách nhiệm với sản phẩm của mình, không phụ thuộc hoàn toàn vào bộ phận kiểm tra cuối cùng. Đó là cách để đảm bảo độ chính xác tuyệt đối và nâng cao giá trị sản phẩm”, ông Hùng cho biết.
Ông Hùng cũng phân tích rằng khi sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao hơn, doanh nghiệp sẽ củng cố được vị thế, từ nhà cung cấp cấp 3 - 4 có thể vươn lên thành vendor cấp 1 - 2. Ở vị thế đó, doanh nghiệp được trao đổi trực tiếp với khách hàng, hiểu rõ nhu cầu, từ đó định hướng đầu tư hiệu quả hơn và thậm chí có thể mở rộng sang các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như y tế, hàng không.
Cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới
Theo ông Chu Việt Cường, bối cảnh quốc tế hiện nay đang mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội chưa từng có. Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch và chính sách “trung hòa rủi ro” của các tập đoàn lớn khiến nhiều doanh nghiệp nước ngoài dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam. Cùng với chính sách thu hút đầu tư vào công nghệ cao, năng lượng xanh, kinh tế tuần hoàn của Chính phủ, đây là thời điểm vàng để doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực.
Tuy nhiên, cơ hội luôn đi kèm thách thức. Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là tài chính, công nghệ và con người. Để đổi mới công nghệ, cần nguồn lực rất lớn. Dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, môi trường, song vẫn cần sự vào cuộc chủ động hơn nữa từ doanh nghiệp. Khả năng liên kết giữa viện, trường, trung tâm kỹ thuật và doanh nghiệp hiện vẫn còn yếu, trong khi đây là yếu tố then chốt để chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực.

Đồng tình với quan điểm này, ông Cao Văn Hùng cho rằng Việt Nam đang có lợi thế lớn về thị trường và nhân lực trẻ, nhưng khó khăn lớn nhất vẫn là vốn đầu tư và nguồn nhân sự R&D chất lượng cao.
“Một máy gia công hiện đại có giá hàng triệu USD, trong khi lãi suất vay trong nước cao, khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể đầu tư. Bên cạnh đó, giữ chân nhân sự giỏi cũng rất khó khi các doanh nghiệp FDI trả lương cao và có cơ hội đào tạo tốt hơn”, lãnh đạo Smart Việt Nam cho biết, đồng thời bày tỏ mong muốn cơ quan quản lý tăng cường truyền thông, hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp tiếp cận được các gói tín dụng công nghệ và chính sách hỗ trợ đổi mới sản xuất.
Liên kết để phát triển bền vững
Theo ông Chu Việt Cường, giai đoạn 2023 – 2025 là thời kỳ có nhiều chính sách đột phá, đặc biệt là Nghị định số 205/2025/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 111/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nghị định này tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển, hợp tác công – tư và cho phép các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp hoạt động linh hoạt, tự chủ hơn về tài chính và hợp tác quốc tế. Điểm mới quan trọng là cơ chế liên kết ba bên Nhà nước – viện, trường – doanh nghiệp nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về chuyển giao công nghệ, thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa.
Ông Cường nhấn mạnh, để chính sách thực sự đi vào đời sống, cần cụ thể hóa bằng hành động, thường xuyên khảo sát, tuyên truyền, phổ biến chính sách đến doanh nghiệp. Các hoạt động hỗ trợ cần đặt doanh nghiệp ở vị trí trung tâm, hướng đến hiệu quả thực tế, giúp họ đổi mới sản xuất, thay vì chỉ dừng ở hỗ trợ thủ tục hành chính. Đồng thời, việc tăng cường liên kết vùng, ngành và chuỗi giá trị sẽ giúp hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo sức lan tỏa cho toàn ngành.
Ông cho rằng, con đường gia tăng hàm lượng công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ không thể thành công nếu chỉ có sự nỗ lực đơn lẻ. Đó phải là quá trình hợp lực của cả “ba bên bốn bề”: Nhà nước tạo cơ chế chính sách thông thoáng; doanh nghiệp chủ động đầu tư, nâng cấp công nghệ; viện, trường cung cấp nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức; hiệp hội đóng vai trò cầu nối.
“Chỉ khi doanh nghiệp Việt Nam làm chủ được công nghệ, chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chúng ta mới có một nền công nghiệp tự chủ và bền vững”, ông Cường khẳng định.
