[eMagazine] Đại biểu Quốc hội “hiến kế” phát triển công nghiệp hỗ trợ


Đại biểu Nguyễn Duy Minh (thành phố Đà Nẵng) cho biết, phát triển công nghiệp hỗ trợ là mắt xích chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quyết định năng lực tự chủ sản xuất và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Việt Nam đã tham gia hơn 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở ra cơ hội lớn về thuế suất ưu đãi, nhưng cũng đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về quy tắc xuất xứ và tỷ lệ nội địa hóa nếu doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu, nhiều sản phẩm sẽ không đủ điều kiện xuất xứ Việt Nam, dẫn tới mất ưu đãi thuế và có nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo là trọng tâm ưu tiên. Đây là cơ sở chính trị vững chắc để doanh nghiệp tư nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong chuỗi giá trị sản xuất quốc gia, cùng với khu vực FDI và doanh nghiệp nhà nước, hình thành 3 trụ cột của công nghiệp Việt Nam.
Đại biểu ghi nhận động lực chính sách mới từ Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 17/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, trong đó thay thế và cập nhật nhiều nội dung mới. Nghị định 205 đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2035 tỷ lệ nội địa hóa phải đạt từ 50 đến 60%, Có ít nhất 3.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đủ năng lực cung ứng cho doanh nghiệp FDI và công nghiệp hỗ trợ phải đóng góp 10% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, nghị định đã mở rộng phạm vi sang phát triển hệ sinh thái sản xuất, chế biến, chế tạo, coi công nghiệp hỗ trợ là trụ cột của nền công nghiệp tự chủ và sáng tạo.


Theo Đại biểu Nguyễn Duy Minh, doanh nghiệp trong nước hoan nghênh việc thành lập Quỹ công nghiệp hỗ trợ quốc gia vì đây là lần đầu tiên có cơ chế tài chính dài hạn, lãi suất thấp, giúp họ đầu tư đổi mới công nghệ tự động hóa và nâng chuẩn quốc tế. Các tập đoàn FDI cũng đánh giá cao chính sách ưu đãi có điều kiện vì tạo cơ hội hợp tác sâu hơn với doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự lo ngại về khả năng tiếp cận quỹ do thủ tục phê duyệt các dự án còn phức tạp, đồng thời đề nghị đảm bảo tiêu chí minh bạch, công bằng, dễ tiếp cận hơn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số ý kiến cũng cho rằng việc ràng buộc nội địa hóa và chuyển giao công nghệ là đúng nhưng cần phải có quy định rõ về giám sát thực thi và tránh hình thức để công nghiệp hỗ trợ phát triển bền vững, bảo vệ lợi ích thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Từ thực tiễn đó, đại biểu Nguyễn Duy Minh kiến nghị ba nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, hiện nay các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ đang chịu sự điều chỉnh và phân tán ở nhiều luật, nghị định khác nhau, chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển. Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu cần có chính sách ưu tiên hỗ trợ trong tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ và thị trường để công nghiệp hỗ trợ phát triển. Vì vậy, tôi đề xuất Chính phủ quan tâm sớm thể chế hóa chủ trương của Đảng, chỉ đạo nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển công nghiệp hỗ trợ để hình thành khung pháp lý thống nhất, ổn định, đảm bảo tự chủ sản xuất, hội nhập bền vững và phát triển của doanh nghiệp Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ hai, triển khai thực chất Quỹ phát triển công nghiệp hỗ trợ quốc gia ngay trong năm 2026, đảm bảo vốn vay ưu đãi đến các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, vật liệu, công nghệ chính xác, đồng thời cần hiện thực cơ chế 1 cửa hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ, rút ngắn các trình tự, thủ tục, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nhanh và hiệu quả, đảm bảo nghị định thực sự đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền công nghiệp quốc gia. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong nước chưa thể tham gia chuỗi cung ứng FDI do thiếu kỹ sư về vật liệu, công nghệ khuôn mẫu, tự động hóa và quản lý sản xuất theo chuẩn quốc tế. Vì vậy, đề nghị Chính phủ nên ưu tiên vốn từ Quỹ công nghiệp hỗ trợ quốc gia để hỗ trợ học phí đào tạo tại chỗ, hỗ trợ học bổng thực hành tại doanh nghiệp, đồng thời liên kết quốc tế trong chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực.



Thứ ba, thu hút đầu tư FDI có chọn lọc gắn với các cam kết nội địa hóa và chuyển giao công nghệ, theo đó Chính phủ cần ban hành cơ chế ưu đãi có điều kiện đối với những doanh nghiệp FDI đạt tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu 30% sau 5 năm hoặc có lộ trình tăng trưởng nội địa hóa hằng năm sẽ được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi, ưu tiên được mở rộng đất, hạ tầng và tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ công nghiệp hỗ trợ quốc gia. Ngược lại, các doanh nghiệp, các dự án không thực hiện các cam kết nội địa hóa sẽ chỉ được hưởng những ưu đãi cơ bản, thậm chí là giảm những ưu đãi tương ứng nếu vi phạm cam kết; cho phép doanh nghiệp FDI khấu trừ chi phí chuyển giao công nghệ, đào tạo nhà cung ứng nội địa khi tính thuế và khuyến khích hợp tác thực chất.


Nhấn mạnh vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, đại biểu Lã Thanh Tân (Thành phố Hải Phòng) cho rằng cần sớm sửa đổi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng như hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp tham gia liên kết ngành, chuỗi giá trị, v.v.. Về nội dung hỗ trợ, ưu tiên chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và xanh hóa sản xuất. Tiếp tục rà soát để đề xuất bãi bỏ điều kiện kinh doanh không còn cần thiết, vì theo chuyên gia và hiệp hội doanh nghiệp, vẫn còn điều kiện kinh doanh có thể xem xét cắt giảm. Nghiên cứu cơ chế chính sách để tạo đột phá về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, không chỉ là những chính sách ưu đãi đầu tư ban đầu mà cần hướng tới khuyến khích các doanh nghiệp lớn có nội lực mạnh. Vậy với những doanh nghiệp này thay vì cơ chế hỗ trợ trước đầu tư thì chuyển sang cơ chế thưởng sau đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển bình đẳng với các khu vực kinh tế.

Đặc biệt, đại biểu cho rằng cần đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái, đổi mới sáng tạo quốc gia; có sự kết nối doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI với các trung tâm nghiên cứu và phát triển, trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ đầu tư mạo hiểm; thúc đẩy nội địa hóa thông qua liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa, hướng tới áp dụng tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong một số lĩnh vực chiến lược, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực để đáp ứng tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi cung ứng FDI.
Bên cạnh đó, xây dựng các chương trình liên kết chuỗi cung ứng giữa FDI và doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế tạo công nghệ cao. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam. Xây dựng trung tâm liên kết, tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm xúc tiến công nghiệp hỗ trợ, trung tâm liên kết doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nội địa tại các khu công nghiệp và khu kinh tế. Có chính sách ưu đãi đầu tư cho FDI, có cam kết liên kết chuyển giao công nghệ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam.

Đại biểu Lã Thanh Tân cũng cho rằng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp; xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị; khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa; kết nối các doanh nghiệp vừa, nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành trong các lĩnh vực như công nghiệp hỗ trợ, chế biến nông sản, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo.
Cuối cùng, cần có cơ chế kết nối các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân với nhau, khu vực kinh tế tư nhân với khu vực nhà nước và với khu vực FDI. Có cơ chế để xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà: doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước, FDI để doanh nghiệp không bơi một mình mà bơi theo đàn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, tăng nội địa hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tăng sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.


Ở góc độ khác, đại biểu Nguyễn Đại Thắng (tỉnh Hưng Yên) nhấn mạnh yêu cầu chuyển đổi mạnh mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, đặt năng suất đổi mới sáng tạo và khoa học, công nghệ làm động lực trung tâm. Đại biểu đề nghị Chính phủ tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lên ít nhất 1,5% GDP; khuyến khích doanh nghiệp trích quỹ khoa học, công nghệ, miễn thuế cho doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng; cần có Quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo quốc gia để hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ công nghiệp hỗ trợ và chuyển đổi số.
Đối với thu hút đầu tư nước ngoài, cần chuyển từ thu hút bằng số lượng sang chất lượng. Đại biểu Thắng phân tích, theo số liệu thống kê, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực FDI nhưng giá trị gia tăng nội địa chưa đạt như kỳ vọng. Do vậy, cần có chính sách chọn lọc, ưu tiên dự án có cam kết chuyển giao công nghệ, sử dụng nhân lực Việt Nam và liên kết với doanh nghiệp nội địa, ví dụ như trong lĩnh vực công nghiệp điện tử và sản xuất chip bán dẫn, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu nếu có chính sách đất đai, hạ tầng và nhân lực phù hợp.
Trong bối cảnh Việt Nam đang có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu, các chính sách đất đai, hạ tầng và đào tạo nhân lực phù hợp sẽ giúp Việt Nam không chỉ là điểm đến sản xuất, mà còn là nơi ươm tạo công nghệ.

Tựu chung lại, thông điệp từ nghị trường đến thực tiễn đều gặp nhau ở yêu cầu chất lượng liên kết. Ngành công nghiệp hỗ trợ chỉ thật sự “lớn lên” khi ưu đãi được hoán đổi bằng tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhà cung ứng; khi Quỹ công nghiệp hỗ trợ trở thành vốn mồi cho đổi mới công nghệ; và khi việc luật hóa tạo nên trục pháp lý ổn định, nhất quán.
Khi ấy, Việt Nam sẽ không còn chỉ là công xưởng gia công - lắp ráp, mà là nơi thiết kế, sản xuất và phân phối, tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng nền công nghiệp tự chủ, hiện đại và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
