[eMagazine] Động lực mới từ Nghị quyết 68-NQ/TW mở rộng không gian phát triển cho công nghiệp hỗ trợ

Sau gần bốn thập kỷ đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị, khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940 nghìn doanh nghiệp và khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp xấp xỉ 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động.
Không chỉ là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng, khu vực tư nhân còn là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Tuy vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW cũng chỉ rõ, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 68-NQ/TW được ban hành nhằm đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, đưa ra các giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế. Trên nền tảng ấy, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đứng trước cơ hội mới để khơi thông nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh và bứt phá trong giai đoạn tới.


Một điểm rất quan trọng được Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh là việc xác lập lại rõ ràng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong tổng thể nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết khẳng định: trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn với tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.
Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân được xác định giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả. Đây là bước phát triển mới trong tư duy phát triển, tiếp nối nhưng vượt lên so với các chủ trương trước đây, khi không chỉ khẳng định vị trí của khu vực tư nhân mà còn đặt khu vực này vào vai trò một trong những động lực quan trọng nhất cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.


Đồng thời, Nghị quyết 68-NQ/TW coi phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; phải được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân.
Với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ - lĩnh vực có phần lớn là doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và vừa, đây là nền tảng chính trị, pháp lý đặc biệt quan trọng, bởi lần đầu tiên khu vực tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp cung ứng linh kiện, phụ tùng, vật liệu và dịch vụ kỹ thuật cho công nghiệp chế biến, chế tạo, được đặt vào vai trò lực lượng tiên phong trong các chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh theo tinh thần của Nghị quyết.




Nhìn lại quá trình phát triển kinh tế tư nhân, TS. Phan Đức Hiếu - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng đã có ít nhất hai dấu mốc lịch sử quan trọng. Lần thứ nhất diễn ra trong giai đoạn 1988 - 1990, khi quan điểm coi kinh tế tư nhân là thành phần “cải tạo” dần được thay đổi, chuyển sang thừa nhận và cho phép khu vực này hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực nhất định theo quy định của pháp luật. Lần thứ hai gắn với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999 - 2000, mở ra tư duy mới: từ chỗ doanh nghiệp phải “xin phép để được kinh doanh” sang cơ chế “đăng ký kinh doanh để được thành lập doanh nghiệp”. Chỉ riêng thay đổi này đã giúp đơn giản hóa mạnh mẽ thủ tục, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường và thể hiện rõ hơn quyền tự do kinh doanh của người dân, của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn từ đó đến nay, dù đã có nhiều đợt cải cách, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn chịu tác động từ nhiều rào cản thể chế, chính sách và cách thức thực thi pháp luật. Theo TS Phan Đức Hiếu, sự ra đời của Nghị quyết 68-NQ/TW có ý nghĩa “thay đổi về chất”, bởi lần đầu tiên những vướng mắc về thể chế được tháo gỡ một cách trực diện với ba trọng tâm rất rõ ràng: cắt giảm thủ tục phiền hà; tăng tính bảo vệ; và khơi thông nguồn lực.
Trước hết, Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra yêu cầu phải tiếp tục tạo thuận lợi hơn cho việc gia nhập thị trường, với thông điệp rất rõ ràng là xóa bỏ các rào cản hành chính không cần thiết, cắt giảm mạnh chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Trong năm 2025, các bộ, ngành phải hoàn thành việc rà soát và loại bỏ điều kiện kinh doanh không cần thiết, cắt giảm tối thiểu 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính và 30% chi phí tuân thủ pháp luật. TS Phan Đức Hiếu đánh giá đây là bước tiến lớn, thể hiện quyết tâm cải cách thể chế mạnh mẽ hơn cả so với giai đoạn đầu những năm 2000.

Thứ hai, Nghị quyết nhấn mạnh việc tăng mức độ bảo vệ đối với hoạt động kinh doanh hợp pháp, thể hiện qua việc xử lý các quan hệ kinh tế - dân sự được xác định phải ưu tiên biện pháp kinh tế, dân sự, hành chính, chỉ chuyển sang xử lý hình sự khi không còn lựa chọn khác. Nghị quyết yêu cầu không hình sự hóa quan hệ kinh tế, không hồi tố quy định bất lợi, bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội và phân định rạch ròi giữa tài sản hợp pháp của doanh nghiệp với tài sản của cá nhân quản lý. Đây là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn, không lo rủi ro pháp lý bất ngờ.
Thứ ba, Nghị quyết 68-NQ/TW chú trọng khơi thông các nguồn lực phát triển. Trong lĩnh vực đất đai, Nghị quyết yêu cầu hoàn thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong năm 2025 nhằm tạo môi trường minh bạch và thuận lợi trong tiếp cận mặt bằng sản xuất. Đặc biệt, các địa phương được phép dành một phần quỹ đất trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo với mức hỗ trợ giảm tối thiểu 30% tiền thuê lại đất trong 5 năm đầu.
Trong lĩnh vực tín dụng, Nghị quyết khuyến khích các ngân hàng thương mại ưu tiên vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp chuyển đổi số và đổi mới công nghệ. Các công cụ như quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tín dụng xanh, tín dụng chuỗi cung ứng… được thúc đẩy nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp tư nhân. Đây là những yếu tố đặc biệt quan trọng với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, khi lĩnh vực này đòi hỏi chi phí đầu tư máy móc, dây chuyền lớn và tiêu chuẩn rất cao.


Từ góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA), Phó Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn N&G (N&G Holdings) cho rằng, Nghị quyết 68-NQ/TW tạo ra động lực mới cho doanh nghiệp khi mở rộng cơ hội tiếp cận nguồn lực một cách công bằng, minh bạch hơn, đồng thời đưa ra định hướng rõ ràng trong phát triển chuỗi giá trị và liên kết cung ứng.

Nhìn thẳng vào bức tranh công nghiệp hỗ trợ trong nước, ông Nguyễn Vân đánh giá, phần lớn doanh nghiệp nội vẫn chỉ dừng lại ở vai trò nhà cung ứng cấp 2, cấp 3 cho các tập đoàn FDI, chưa trở thành đối tác trực tiếp ở những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao. Nhiều năm qua, dù có những tiến bộ đáng ghi nhận, năng lực của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam nhìn chung vẫn còn hạn chế: quy mô nhỏ, công nghệ chưa đồng bộ, sản phẩm chủ yếu ở phân khúc thấp, khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu còn mỏng.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 68-NQ/TW mở ra nhiều cơ hội quan trọng cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Trước hết, việc cải cách thủ tục hành chính và giảm chi phí tuân thủ sẽ giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian gia nhập thị trường, thành lập nhà máy, xin giấy phép môi trường, tiếp cận mặt bằng sản xuất, thực hiện các thủ tục liên quan đến tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm. Đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, nơi mỗi dự án đầu tư, mỗi dây chuyền sản xuất đều gắn với những tiêu chuẩn kỹ thuật rất nghiêm ngặt, sự thông thoáng về thủ tục có ý nghĩa như một đòn bẩy, giúp doanh nghiệp tập trung nguồn lực cho sản xuất, nghiên cứu phát triển và tự tin hơn trong việc triển khai các sản phẩm mới.



Mặt khác, môi trường pháp lý an toàn hơn, với cam kết không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, không hồi tố quy định bất lợi và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, sẽ tạo thêm “vành đai an toàn” để doanh nghiệp dám nghĩ, dám làm, dám đầu tư dài hạn. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang cân nhắc đầu tư vào dây chuyền tự động hóa, robot hóa, gia công chính xác hay các công nghệ lõi phục vụ ngành ô tô, điện tử, thiết bị công nghiệp…, việc có một hành lang pháp lý ổn định, minh bạch sẽ giúp họ giảm đáng kể tâm lý e ngại rủi ro, nhất là trong những hợp đồng cung ứng phức tạp, kéo dài nhiều năm với đối tác FDI.
Cùng với đó, các định hướng về khơi thông nguồn lực đất đai, mặt bằng, vốn và nhân lực cũng mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Những chính sách tín dụng đặc thù, cơ chế bảo lãnh vay vốn, khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, trong đó có vốn ODA để đầu tư thiết bị, công nghệ từ các quốc gia có nền công nghiệp phát triển… nếu được triển khai cụ thể, sẽ tạo thành “lực đẩy” quan trọng giúp doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nâng cấp năng lực sản xuất. Việc quy hoạch, hình thành các khu công nghiệp chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ, với hạ tầng đạt chuẩn quốc tế, cũng là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư ban đầu, dễ dàng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ, logistics, đào tạo nhân lực và thông tin thị trường.
Một cơ hội khác là khả năng mở rộng liên kết với các tập đoàn FDI và nâng tỷ lệ nội địa hóa. Khi môi trường thể chế trở nên minh bạch, ổn định hơn, Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, các yêu cầu gắn kết, ràng buộc FDI với doanh nghiệp trong nước, cùng với việc phát triển mạnh hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ, sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt trở thành đối tác cung ứng tin cậy, có chỗ đứng tốt hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.


Để triển khai hiệu quả các giải pháp nêu tại Nghị quyết 68-NQ/TW, duy trì lợi thế cạnh tranh cho ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là cho các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa Việt Nam, lãnh đạo HANSIBA đưa ra 9 kiến nghị, đề xuất.

Thứ nhất, đề xuất Chính phủ cần sớm xem xét, nghiên cứu cho xây dựng đạo Luật liên quan lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và trình Quốc hội và ban hành trong thời gian sớm nhất (ngày 14/7/2025 Chính phủ đã ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ).
Thứ hai, đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo cấp Nhà nước với sự tham gia của một số Bộ, ban ngành, tỉnh thành, đại diện tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp liên quan công nghiệp hỗ trợ để thống nhất chỉ đạo thúc đẩy giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để phát triển các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Để quyết tâm đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 sẽ đạt tỷ trọng 5 - 10% tổng số 2 triệu doanh nghiệp Việt Nam hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW.
Thứ tư, cần quy hoạch cụ thể từng vùng kinh tế (Bắc - Trung - Nam) để phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, tránh tình trạng “nhà nhà” phát triển, “tỉnh tỉnh, thành phố” phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm hạn chế tối đa lãng phí nguồn lực của đất nước và cạnh tranh không cần thiết. Phải làm rõ vùng nào sản xuất linh kiện cho ngành gì như linh kiện sản phẩm cho ngành máy bay, tàu cao tốc, ô tô, điện tử, công nghiệp đóng tàu biển, nông ngư nghiệp, da giày, dệt may...




Thứ năm, cần có gói giải pháp cấp thiết, đặc thù về vốn (lãi suất và thời gian vay, hạn mức vay, tài sản thế chấp), vì các quy định về điều kiện vay vốn (tài sản đảm bảo tiền vay, vốn đối ứng của chủ đầu tư, lãi suất vay, thời gian vay) vẫn còn trở ngại đối với các DN sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
Thứ sáu, Nhà nước cần có quy hoạch và chính sách cụ thể để hỗ trợ hình thành một số khu công nghiệp chuyên sâu tại 3 miền Bắc - Trung - Nam, hỗ trợ đào tạo lao động chất lượng cao, hỗ trợ công nghệ khi nhập khẩu các thiết bị cũ đã qua sử dụng nhưng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và Việt Nam, chính sách thuế, đầu ra cho sản phẩm để trực tiếp dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia sản xuất.
Thứ bảy, cho phép các doanh nghiệp tư nhân thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao được tiếp cận vay vốn ODA để đầu tư mua thiết bị, máy móc, công nghệ của nước ngoài (đặc biệt chú trọng vào Nhật Bản, Mỹ cùng các nước công nghiệp phát triển) để có khả năng sản xuất, liên kết tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.
Thứ tám, việc kết nối các doanh nghiệp tập đoàn lớn quốc tế đang có mặt tại Việt Nam là hết sức quan trọng, thúc đẩy và “kèm cặp” để các doanh nghiệp FDI này chú trọng việc đặt hàng. Hỗ trợ “thực chất”, “đôi bên cùng có lợi”, “tăng cường nội địa hoá sản phẩm” made in, made by Việt Nam với các doanh nghiệp Việt Nam đã, đang và sẽ sản xuất linh phụ kiện cung ứng cho họ để từ đó các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp tham gia chuỗi sản xuất công nghiệp hỗ trợ.


Thứ chín, doanh nghiệp khởi nghiệp, khởi tạo ngành công nghiệp hỗ trợ là đặc biệt then chốt để phát triển thực hiện mục tiêu “công nghiệp hoá đất nước”. Cần có chính sách ưu đãi cụ thể khuyến khích các thanh niên Việt Nam đã học tập, làm việc tại các công ty, từ các quốc gia có nền công nghiệp đã phát triển để họ khởi nghiệp, lập nghiệp trở thành các doanh nhân, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ 100% Việt Nam.

Mặc dù Nghị quyết 68-NQ/TW và những kiến nghị chính sách mở ra nhiều triển vọng, các chuyên gia đồng thời nhấn mạnh rằng thành công cuối cùng vẫn phụ thuộc rất lớn vào sự chủ động của chính doanh nghiệp. Khi thể chế đã cởi mở, rào cản phân biệt đối xử được gỡ bỏ, môi trường kinh doanh bình đẳng được củng cố, cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt hơn. Trong sân chơi mới đó, chỉ những doanh nghiệp có năng lực thực sự, biết đổi mới, biết tận dụng cơ hội và duy trì kỷ luật tuân thủ pháp luật mới có thể trụ vững và bứt phá trong dài hạn.

Đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, yêu cầu đặt ra là phải đồng thời nâng cấp ở nhiều mặt: từ trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động đến quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và văn hóa kinh doanh. Việc tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngặt nghèo về kỹ thuật, chất lượng, môi trường, lao động, quản trị…; đồng thời duy trì tính minh bạch, ổn định và khả năng cải tiến liên tục. Đây không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn là bài toán về tư duy và tầm nhìn.
Từ nền tảng mà Nghị quyết 68-NQ/TW tạo ra, cộng đồng doanh nghiệp có cơ sở để kỳ vọng vào một giai đoạn phát triển mới của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Nếu các nội dung của Nghị quyết được thể chế hóa đầy đủ, đi cùng với cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí, mở rộng tiếp cận nguồn lực, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hoàn toàn có thể bước lên một tầm cao mới.


Như ông Nguyễn Vân nhấn mạnh, với những quyết sách kịp thời như Nghị quyết 68-NQ/TW, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng các doanh nghiệp kinh tế tư nhân nói chung, cùng đội ngũ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói riêng sẽ thêm lớn mạnh và bền vững, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Vấn đề còn lại là làm sao để tinh thần đổi mới mạnh mẽ trong Nghị quyết sớm được chuyển hóa thành hành động cụ thể trong từng văn bản pháp luật, từng chính sách và hơn hết là trong mỗi quyết định đầu tư, mỗi bước đi chiến lược của chính các doanh nghiệp.


