[eMagazine] Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển công nghiệp hỗ trợ: Bài học nào cho Việt Nam?


Trung Quốc được xem là một trong những quốc gia thành công trong việc tận dụng hiệu quả dòng vốn FDI để từng bước phát triển khoa học công nghệ vàc các ngành công nghiệp trong nước. Qua từng thời kỳ, mục tiêu phát triển khoa học - công nghệ trong nước luôn được nhấn mạnh, ưu tiên và nhất quán thực hiện thông qua các chính sách của nhà nước. Ngay từ năm 1963, hiện đại hoá công nghệ đã được đưa ra là một trong "Bốn hiện đại hoá" (Four Modernizations) do Thủ tướng đầu tiên của Trung Quốc đề xuất trong bản kế hoạch cải cách và phát triển kinh tế. Mục tiêu này sau đó tiếp tục được nhấn mạnh tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1978 (khẳng định việc tiếp thu công nghệ và máy móc tiên tiến đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Trung Quốc) và các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm của Trung Quốc.
Ảnh: Getty
Trước đây, Trung Quốc áp dụng cơ chế liên doanh bắt buộc với doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong ngành ô tô, để giúp doanh nghiệp trong nước tăng tốc quá trình học hỏi công nghệ và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các thương hiệu toàn cầu. Tuy nhiên, chính sách này gây ra nhiều tranh cãi quốc tế về việc “ép buộc chuyển giao công nghệ”. Nhằm điều chỉnh, năm 2019, Trung Quốc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài mới trên cơ sở tự nguyện và theo các điều kiện thương mại. Các điều khoản và điều kiện hợp tác phải được xác định thông qua thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và công bằng. Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức Trung Quốc không được sử dụng biện pháp hành chính để bắt buộc chuyển giao công nghệ.
Một điểm đặc biệt trong chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Trung Quốc là việc hình thành các cụm công nghệ - khu công viên khoa học, kết hợp trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, tiêu biểu như Khu công nghệ cao Tân Trúc (Đài Loan - Trung Quốc) đóng vai trò là bệ phóng R&D ứng dụng, ươm tạo, chuẩn hóa quy trình, giúp các doanh nghiệp nội nhanh đạt chuẩn của các tập đoàn đa quốc gia.. Song song đó, Luật Thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2002 của nước này quy định rõ cơ quan liên quan thuộc chính phủ có trách nhiệm cung cấp các thông tin hướng dẫn và hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc xuất khẩu các mặt hàng, đồng thời đảm bảo doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận với các khoản vay tín dụng ưu đãi.


Năm 2015, Trung Quốc ban hành chính sách công nghiệp tổng thể với kế hoạch Made in China 2025 (MIC2025). Kế hoạch đặt ra mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu về sản xuất hiện đại. Các trụ cột chính bao gồm: (i) Tăng cường đổi mới sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là chủ thể, định hướng theo thị trường; (ii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, tin học vào ngành công nghiệp, lấy sản xuất thông minh (smart manufacturing) là mục tiêu chính; (iii) Tăng cường năng lực ngành công nghiệp hỗ trợ, trong đó linh kiện, vật liệu cơ bản, kỹ thuật cơ bản và công nghệ cơ bản được xem là “bốn yếu tố cơ bản”, là điểm mấu chốt trong phát triển ngành công nghiệp sản xuất; (iv) Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu gắn với kiểm soát chất lượng; (v) Đẩy mạnh sản xuất xanh; (vi) Đẩy mạnh điều chỉnh cơ cấu ngành sản xuất, phát triển các ngành công nghiệp truyền thống theo hướng trung - cao cấp; (vii) Đẩy mạnh một số lĩnh vực trọng điểm bao gồm công nghệ thông tin thế hệ mới, công cụ và robot, hàng không vũ trụ, năng lượng, đường sắt, xe điện, vật liệu mới,…
Nhờ đó, Trung Quốc đang chuyển từ “công xưởng của thế giới” sang “trung tâm công nghiệp công nghệ cao”, với sự tham gia ngày càng mạnh của các doanh nghiệp nội trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Nhật Bản đã có các chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ từ rất sớm. Năm 1949, nước này ban hành Luật về hợp tác với doanh nghiệp với mục đích bảo vệ quyền đàm phán và tạo điều kiện cho các nhà thầu phụ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, nhằm xúc tiến các hoạt động “thầu phụ” (cũng chính là các hoạt động sản xuất công nghiệp hỗ trợ).
Những năm 1950, Chính phủ Nhật Bản ban hành Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán chi phí thầu phụ và các vấn đề liên quan, nhằm ngăn chặn tình trạng chiếm dụng vốn của các công ty lớn với các nhà thầu phụ. Đến những năm 1970 lại có Luật Xúc tiến doanh nghiệp cung ứng nhỏ và vừa nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà cung ứng và họ đã phát triển rất mạnh, trở thành lực lượng sản xuất quan trọng của công nghiệp Nhật Bản.
Các luật này giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản có quyền thương lượng công bằng, tiếp cận công nghệ mới và nguồn vốn ưu đãi. Nhật Bản còn thành lập Công ty Tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (JASME) để bảo lãnh tín dụng và cho vay lãi suất thấp.
Chính phủ Nhật Bản cũng đưa ra các chính sách ưu tiên phát triển những sản phẩm cụ thể, đặc biệt là công nghiệp cơ khí và điện tử, trong đó chú trọng đến các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ). Có thể kể đến hai đạo luật quan trọng là Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích công nghiệp cơ khí và Luật về Biện pháp ngắn hạn khuyến khích ngành công nghiệp điện tử. Theo đó, Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo vốn đầu tư cần thiết cho việc trang bị thiết bị nhằm hợp lý hoá việc sản xuất và nhiều ưu đãi khác. Đi kèm hai đạo luật này là danh mục chi tiết các sản phẩm được ưu tiên phát triển.


Danh mục được xem xét, đề xuất và liên tục cập nhật bởi Ban Thẩm tra Công nghiệp cơ khí và Ban Thẩm tra Công nghiệp điện tử. Hai ban này được đặt tại Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), với thành viên được Bộ trưởng Bộ kinh tế, Thương mại và Công nghiệp bổ nhiệm từ những cán bộ của các tổ chức hành chính liên quan và các chuyên gia trong các lĩnh vực công nghiệp. Tuy gọi là biện pháp ngắn hạn nhưng hai đạo luật này đã được duy trì hàng chục năm.
Năm 2021, Nhật Bản đã ban hành chính sách công nghiệp tổng thể với Kế hoạch hành động nhằm tăng cường nền tảng công nghiệp và công nghệ cho an ninh kinh tế. Kế hoạch được sửa đổi vào tháng 5/2024 và 5/2025, với các trụ cột chính sách tập trung vào: (i) tận dụng cơ hội từ sự điều chỉnh chiến lược chuỗi cung ứng trên toàn thế giới; (ii) đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, AI, robot, số hoá nhằm chuyển sang "cạnh tranh bằng giá trị gia tăng cao", trở thành quốc gia "không thể thay thế" trong chuỗi cung ứng của thế giới; (iii) tăng cường thu thập, phân tích thông tin về biến động kinh tế thế giới làm cơ sở cho hoạch định và thực thi chính sách.
Các chính sách trên đã giúp ngành công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, đưa Nhật Bản từ một quốc gia bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh trở thành một cường quốc về công nghiệp. Thành công của Nhật Bản là đã xây dựng được hệ sinh thái công nghiệp bền chặt, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò xương sống cung cấp linh kiện, phụ tùng cho các tập đoàn lớn.

Đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã vạch ra chiến lược chọn một số tập đoàn mạnh để phát triển kinh tế quốc gia theo hướng xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng nhập khẩu. Sự hợp tác giữa Chính phủ với các Chaebol (các tập đoàn, công ty thuộc sử hữu gia đình) đã đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và tạo nên những thành công đáng kinh ngạc của Hàn Quốc. Cùng với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các Chaebol, công nghiệp hỗ trợ tại Hàn Quốc phát triển mạnh vào thập niên 1970 và 1980 (ở Hàn Quốc, công nghiệp hỗ trợ được gọi là công nghiệp vật liệu và phụ tùng).

Song song với việc phát triển các Chaebol, Chính phủ Hàn Quốc đã buộc các tập đoàn này phải chuyển phần sản xuất linh kiện, phụ tùng sang các doanh nghiệp nhỏ để tạo sự lan toả và gia tăng tính cạnh tranh, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Năm 1975, Luật Xúc tiến thầu phụ được ban hành, trong đó chỉ định một số ngành công nghiệp cũng như sản phẩm trong các ngành này là các linh phụ kiện. Luật yêu cầu các doanh nghiệp lớn phải mua ngoài mà không được tự sản xuất các sản phẩm này. Số lượng các sản phẩm này tăng từ 41 loại (năm 1979) lên 1.553 (năm 1984) và giảm xuống còn 1.053 loại vào năm 1999. Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò thầu phụ tăng từ 19,7% (1976) lên 70% (1990).
Năm 2005, Chính phủ Hàn Quốc triển khai Chiến lược phát triển nguyên liệu và linh phụ kiện nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong công nghiệp ô tô và công nghiệp điện tử, trong đó chỉ định rõ Samsung và Lucky Gold Star là các doanh nghiệp hạt nhân, với một số nhà sản xuất chuyên cung ứng linh phụ kiện phải phát triển các sản phẩm này để thay thế nhập khẩu. Chương trình này bắt buộc các doanh nghiệp hạt nhân phải cam kết mua linh kiện của các doanh nghiệp cung ứng này. Chiến lược được đánh giá thành công, vì các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc đã phát triển rất nhanh.


Chính phủ Hàn Quốc cũng ban hành nhiều chính sách tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ về tài chính, ươm mầm khởi nghiệp, đổi mới công nghệ.
Để phát triển các công nghệ sản xuất thông minh và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang các nhà máy thông minh với các công nghệ chủ chốt như IoT, dữ liệu lớn và điện toán đám mây, Hàn Quốc đã ban hành Chiến lược Đổi mới sản xuất 3.0 (Manufacturing Innovation 3.0) vào năm 2014. Chiến lược đặt mục tiêu huy động nguồn vốn khoảng 1 nghìn tỷ won và xây dựng 10.000 nhà máy thông minh vào năm 2020, thúc đẩy tạo dựng ngành sản xuất thông minh thông qua việc thúc đẩy đổi mới cấu trúc công nghiệp, dựa trên các yếu tố thông minh, thân thiện môi trường.

Thái Lan được đánh giá là một trong những quốc gia Đông Nam Á có nền công nghiệp hỗ trợ phát triển sớm và bài bản. Nhờ dòng vốn và công nghệ từ các tập đoàn Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan hình thành mạng lưới nhà cung ứng mạnh trong các ngành ô tô, điện - điện tử, cơ khí.
Năm 1992, Thái Lan thành lập Đơn vị xúc tiến liên kết công nghiệp (BUILD) với mục đích thu thập và tổng hợp dữ liệu về các nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng trong nước và kết nối họ với các nhà sản xuất, lắp ráp, góp phần hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng. BUILD cũng tổ chức các hội thảo, tọa đàm, hỗ trợ hội chợ, các nhà cung ứng trong nước tham gia các hội chợ thương mại trong và ngoài nước, cũng như sắp xếp các chuyến tham quan nhà máy. Bên cạnh các hoạt động kết nối cung - cầu, BUILD còn cung cấp tư vấn kỹ thuật cho các nhà sản xuất nhỏ trong nước và tài trợ các khóa đào tạo, hội thảo, giúp họ tiếp cận các chương trình hỗ trợ của cơ quan chính phủ.

Năm 1996, Chính phủ nước này tiếp tục thành lập Ban Phát triển Công nghiệp hỗ trợ (BSID) trực thuộc Cục Phát triển công nghiệp, Bộ Công nghiệp, phụ trách đào tạo nhân lực, tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ công nghệ và thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ, nhà khởi nghiệp và các cơ quan hỗ trợ
Với nguồn ngân sách trong nước và hỗ trợ nước ngoài, BSID đã xây dựng các dự án hữu ích, tập trung vào ba khía cạnh chính là con người, công nghệ và liên kết, cũng như thúc đẩy, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, đào tạo và tư vấn kỹ thuật. BSID định hướng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), nhà khởi nghiệp, các cơ quan hỗ trợ và các nhà cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, Cục Phát triển công nghiệp còn có một ban quan trọng khác nhằm phục vụ mục đích thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ là Ban phát triển các nhà cung cấp dịch vụ (BSPD) chịu trách nhiệm đào tạo các nhà tư vấn, quản lý và dịch vụ phục vụ các doanh nghiệp.

Có thể kể đến hai chính sách, chiến lược then chốt về xúc tiến công nghiệp hỗ trợ của Thái Lan là Quy hoạch tổng thể công nghiệp hỗ trợ năm 1995 và Quy hoạch tổng thể ngành ô tô 2007 - 2011.
Quy hoạch tổng thể công nghiệp hỗ trợ tập trung vào ngành công nghiệp ô tô và điện - điện tử, đưa ra danh mục linh kiện và phụ tùng của các ngành này với hiện trạng cụ thể (nhập khẩu hay nội địa hóa) và các bảng tóm tắt các biện pháp đề xuất. Đây là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách của Thái Lan đưa ra các ưu đãi và chương trình phát triển cụ thể.
Quy hoạch tổng thể ngành ô tô 2007 - 2011 có tầm nhìn là “Thái Lan là cơ sở sản xuất ô tô ở Châu Á tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho đất nước với ngành công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô mạnh”. Với tầm nhìn đó quy hoạch này tập chung vào các chương trình hành động phát triển công nghiệp hỗ trợ như phát triển nhà cung cấp, phát triển chuỗi cung cấp, xúc tiến đầu tư và kết nối doanh nghiệp.



Tại báo cáo về “Nâng cao năng lực sản xuất và phát triển công nghiệp phụ trợ trong chuỗi giá trị toàn cầu - Thực trạng, thách thức và giải pháp cho giai đoạn 2026-2030”, TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV chỉ ra, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội trong gần 40 năm đổi mới, trên nền tảng mô hình sản xuất gia công - xuất khẩu, trong đó khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn chiếm vai trò chủ đạo, đặc biệt trong các ngành sản xuất chiến lược (điện tử, điện máy, cơ khí chế tạo, dệt may - da giầy…), tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý thuận lợi, cơ cấu lao động trẻ và chi phí ở mức trung bình - thấp, cùng nền chính trị ổn định, chính sách ngày càng thông thoáng, thuận lợi, nhất là quyết tâm cải cách hiện tại.

Tuy nhiên, trước bối cảnh rủi ro ngày càng gia tăng, rủi ro an ninh phi truyền thống và thách thức từ chiến tranh thương mại - công nghệ, mô hình tăng trưởng đó đã trở nên lỗi thời, thiếu bền vững khi phần lớn giá trị xuất khẩu và giá trị gia tăng của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp FDI, trong khi khu vực kinh tế trong nước còn chậm phát triển, giá trị gia tăng thấp, sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hạn chế, chủ yếu là do năng lực sản xuất nội tại, trong đó các ngành công nghiệp chiến lược, công nghiệp phụ trợ chưa đủ mạnh.


Qua nghiên cứu các kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Nhóm nghiên cứu khái quát một số bài học kinh nghiệm từ quốc tế là: (i) chính sách công nghiệp tổng thể với định hướng đúng và triển khai hiệu quả, phù hợp bối cảnh kinh tế đất nước là rất quan trọng; (ii) có chính sách hỗ trợ về tài chính như ưu đãi thuế, phí, các gói vay ưu đãi... cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii) có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước (trong đó có doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ) liên kết, hợp tác và từng bước cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp FDI, tận dụng thời cơ để làm chủ một số công nghệ cốt lõi; (iv) có chính sách thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các tập đoàn lớn trong nước và doanh nghiệp vừa và nhỏ (như tại Hàn Quốc, Samsung được yêu cầu mua linh kiện từ nhà cung cấp trong nước) (v) có hệ thống pháp lý, hành chính thông thoáng, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp, xây dựng các trung tâm ươm mầm doanh nghiệp, hỗ trợ tư vấn khởi nghiệp; (vi) thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nghiên cứu công nghệ mới, đẩy nhanh quá trình thương mại hoá các thành tựu khoa học công nghệ.
