Triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng Đông Nam Bộ

Sáng 23/10/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị.

Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến, đầu cầu trực tiếp tại Trụ sở Trung ương Đảng kết nối từ Thủ đô Hà Nội đến các điểm cầu cấp tỉnh, cấp huyện và cơ sở. Tại điểm cầu Đảng bộ Bộ Công Thương kết nối với điểm cầu Trung ương có sự tham dự và chủ trì của đồng chí Đặng Hoàng An- Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Bí thư Đảng uỷ Bộ, Thứ trưởng Bộ Công Thương; các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Công Thương; các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư các đảng bộ, chi bộ  trực thuộc đảng bộ Bộ Công Thương; các đồng chí Lãnh đạo, cán bộ chủ chốt các đơn vị thuộc Bộ.

Hội nghị nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng như trong Vùng Đông Nam Bộ để sớm đưa Nghị quyết quan trọng này vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển Vùng Đông Nam Bộ.

Hội nghị cũng thể hiện tinh thần nghiêm túc, ý chí và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong việc đổi mới xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển Vùng - một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, không chỉ đối với các vùng mà còn đối với cả nước.

Phát biểu tham luận tại Hội nghị đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương khẳng định vùng Đông Nam Bộ là vùng kinh tế năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển; có vai trò là “đầu tàu” kinh tế, động lực phát triển của cả nước nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Những năm qua, sản xuất công nghiệp trong Vùng đã đạt những thành tựu quan trọng; liên tục tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước; cơ cấu Ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, góp phần đưa Việt Nam từng bước trở thành một trong những “công xưởng” của thế giới với nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao, sản phẩm có thương hiệu, có khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu (điển hình là các tập đoàn, công ty hàng đầu thế giới như: Intel, Sanofi, Samsung...).

Bên cạnh những kết quả đạt được Bộ trưởng cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần tập trung khắc phục, như: Sản xuất công nghiệp phát triển chưa bền vững, chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động và đất đai; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm; Phân bố không gian phát triển công nghiệp chưa hợp lý và thiếu tính kết nối. Công nghiệp công nghệ cao còn phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài; tỷ lệ nội địa hóa các ngành chế tạo, chế biến, điện tử tin học, viễn thông, điện tử chuyên dụng đạt thấp (chỉ từ 5-15%); năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế…

Nguyên nhân của những hạn chế này có cả chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan chủ yếu được Nghị quyết của Bộ Chính trị chỉ ra là: (i) “Nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng chưa đầy đủ”; (ii) “Thể chế liên kết vùng chưa đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích, huy động hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng công nghiệp, hạ tầng kết nối vùng quan trọng, quy mô lớn”; (iii) “Các quy hoạch chất lượng chưa cao, thiếu liên kết, không đồng bộ, thậm chí xung đột, chồng chéo; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ cao còn thấp”…

Để khắc phục các hạn chế nêu trên, tiếp tục phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Vùng, thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển nhanh và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra, tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm:

Thứ nhất, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thành Quy hoạch các tỉnh, thành phố và Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, bảo đảm cân đối vùng, miền và phù hợp với định hướng Quy hoạch quốc gia và các quy hoạch ngành của cả nước; trong đó cần xác định việc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp theo chiều sâu, quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu là điều kiện quan trọng, xu thế tất yếu bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, cần đề cao tư duy phát triển Vùng, đặt quy hoạch, chiến lược phát triển từng tỉnh trong tư duy phát triển Vùng gắn với vai trò đầu tàu, hạt nhân phát triển vùng của Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó xây dựng các định hướng phát triển phù hợp và bố trí không gian hợp lý nhằm khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, khắc phục hạn chế về liên kết Vùng và khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của cả Vùng, cũng như của từng địa phương.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư; huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hoà với ngoại lực để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng kết nối quan trọng, quy mô lớn nhằm tăng cường liên kết giữa các địa phương trong Vùng và giữa vùng Đông Nam Bộ với các vùng kinh tế khác.Chủ động tạo quỹ đất sạch và huy động hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy hoạch. Thúc đẩy hình thành và phát triển thực chất các khu đô thị công nghiệp và khu công nghiệp công nghệ cao, nhất là ở TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; đồng thời, chú trọng xây dựng, phát triển các Cụm liên kết, hình thành Hệ sinh thái công nghiệp để tập trung thu hút các dự án công nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, góp phần đưa vùng Đông Nam Bộ thật sự trở thành trung tâm phát triển công nghiệp công nghệ cao của cả nước, khu vực và thế giới.

Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất và ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ, đủ mạnh và khả thi nhằm khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, nền tảng mà Vùng có lợi thế cạnh tranh, như: Khai thác, chế biến dầu khí; cơ khí, chế tạo, chế biến; điện tử, viễn thông; hóa chất và năng lượng nhằm nâng cao tính chủ động trong sản xuất và giá trị quốc gia trong sản phẩm.

Ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao; phát triển nhanh hơn một số ngành, sản phẩm công nghiệp có tính “dẫn đường” như: chất bán dẫn, công nghiệp sản xuất rô-bốt, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, sản xuất phần mềm, sản phẩm số, vật liệu mới và các ngành công nghiệp hỗ trợ, từng bước tạo dựng mạng lưới vệ tinh cung cấp linh kiện phục vụ các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam và khu vực.

Bên cạnh đó, cần tạo lập cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, chia sẻ, hỗ trợ thực chất các doanh nghiệp trong nước cùng phát triển bền vững; đồng thời, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh chuyển đổi số, vươn lên, đủ khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ hiện đại và kỹ năng quản trị tiên tiến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tính độc lập, tự chủ của nền công nghiệp quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước.

Tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, doanh nghiệp số để Vùng thực sự đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng công nghệ cao, công nghệ số. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ logistics, hình thành trung tâm logistics kết nối đến các trung tâm động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm; đồng thời, tận dụng tối đa các cơ hội của các hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã ký kết để thu hút đầu tư, phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Thứ tư, chú trọng quy hoạch và đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Chủ động xây dựng, hoàn thiện hạ tầng xã hội, đáp ứng tốt nhất các nhu cầu trong cuộc sống, sinh hoạt cho người lao động. Có chính sách hỗ trợ, đầu tư cho một số trường đại học, cao đẳng nghề trọng điểm trong Vùng để nâng cao năng lực đào tạo, nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ (nhất là các công nghệ cơ bản) và xây dựng các chương trình đào tạo tiên tiến về công nghiệp công nghệ cao; chú trọng đào tạo theo modul, gắn đào tạo với thực hành để hình thành đội ngũ người lao động tinh thông kiến thức, tay nghề, kỹ năng và có tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh, đi đầu trong cải cách hành chính, phát triển chính phủ điện tử, hướng đến xây dựng chính quyền số. Tập trung rà soát, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục, điều kiện đầu tư, kinh doanh không còn phù hợp. Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Chú trọng nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 ở hầu hết các thủ tục nhằm rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương trong Vùng./.

 

Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương