Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng 19/11/2025, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội đã nghe trình bày Tờ trình tóm tắt và Báo cáo tóm tắt thẩm tra về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình tóm tắt về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc cho biết, việc xây dựng Nghị quyết là yêu cầu cấp thiết nhằm quy định chính sách, cơ chế đặc thù trong triển khai nhiệm vụ đối ngoại và hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong tình hình mới theo Nghị quyết số 59 của Bộ Chính trị; đồng thời nhằm khẳng định và khắc phục một số khó khăn, điểm nghẽn trong việc triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời gian qua. Nổi bật là việc tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác; việc phát huy vai trò của địa phương, doanh nghiệp và việc đảm bảo nguồn lực cho công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Chính phủ trình Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 theo quy trình một kỳ họp. Dự thảo Nghị quyết được xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Dự thảo Nghị quyết gồm 8 chương, 29 điều với 2 phụ lục, tập trung vào 3 chính sách lớn:
Thứ nhất, chính sách tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ các đối tác, đẩy mạnh và nâng tầm ngoại giao đa phương, chủ động đóng góp trí tuệ, nguồn lực vào gìn giữ hòa bình và thúc đẩy hợp tác phát triển quốc tế, gia tăng sức mạnh mềm của đất nước.
+ Cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết để xử lý những vướng mắc về pháp luật trong triển khai dự án hợp tác với các đối tác nước ngoài có tính chất trọng điểm, chiến lược theo ý kiến chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền.
+ Chính phủ quyết định việc dành ưu đãi hỗ trợ cho các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài hiện diện tại Việt Nam, xây dựng chương trình nghiên cứu Việt Nam và chương trình khách mời của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ để tăng cường hiểu biết về Việt Nam.
+ Cho phép cử lực lượng tham gia hoạt động xây dựng, kiến thiết tại các nơi có xung đột, thảm họa hoặc xây dựng công trình hỗ trợ quốc gia đối tác.
+ Cho phép địa phương thành lập Văn phòng đại diện ở nước ngoài tại một số địa bàn trọng điểm; trao quyền chủ động cho địa phương trong công tác sửa chữa các công trình biên giới.
Thứ hai, chính sách phát huy vai trò trung tâm chủ thể động lực và lực lượng chủ công của doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế.
+ Cho phép doanh nghiệp lập Quỹ Phát triển doanh nghiệp hội nhập quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
+ Cho phép Hiệp hội ngành hàng lập Quỹ Xúc tiến xuất khẩu ngành hàng để thực hiện xúc tiến thương mại, nghiên cứu phát triển và bảo vệ thương hiệu.
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài thành lập tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp ở nước ngoài.
Thứ ba, chính sách đẩy mạnh đào tạo, nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế ở cả trung ương và địa phương.
+ Cho phép huy động sử dụng công chức, viên chức, sĩ quan lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu vào nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế quan trọng.
+ Bổ nhiệm chức danh đặc phái viên của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đại sứ đặc mệnh toàn quyền lưu động để đảm bảo linh hoạt, kịp thời triển khai các hoạt động đối ngoại, phục vụ yêu cầu của đất nước.
+ Hỗ trợ 100% lương theo hệ số hiện hưởng của người làm công tác đối ngoại và hội nhập thường xuyên trong toàn hệ thống chính trị. Cho phép chuyên gia, nhà khoa học, người sử dùng thành thạo ngoại ngữ hiếm được hưởng 300% lương theo mức lương hệ số được hưởng.
+ Áp dụng khoán chi trong thực hiện nghiên cứu chiến lược.
Trình bày Báo cáo tóm tắt thẩm tra dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại Lê Tấn Tới nêu rõ, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhận thấy Hồ sơ dự thảo Nghị quyết đảm bảo các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hồ sơ gửi thẩm tra theo trình tự, thủ tục rút gọn; đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, thông qua tại Kỳ họp thứ 10.
Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, bởi việc ban hành Nghị quyết sẽ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế trong tình hình mới, theo tinh thần Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; đồng thời, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo đột phá và thay đổi căn bản, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong bối cảnh đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới.
Nội dung dự thảo Nghị quyết cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, đặc biệt là các quy định của Hiến pháp năm 2013 và cơ bản thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, nội dung dự thảo đề xuất nhiều chính sách mang tính đặc thù, vượt khung, liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, trong đó có một số luật đang được sửa đổi và xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 10. Vì vậy, đề nghị: (i) Tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, để tránh chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật hiện hành; (ii) Cần có đánh giá tác động cụ thể hơn với các cơ chế đặc thù, vượt khung. Bên cạnh đó, nội dung dự thảo Nghị quyết đề cập bao quát đến hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị tiếp tục rà soát, đảm bảo dự thảo Nghị quyết phù hợp với các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực mà Việt Nam là thành viên.
Về khuyến khích các tổ chức quốc tế, nước ngoài, phái đoàn đặc biệt và tổ chức phi chính phủ nước ngoài hiện diện tại Việt Nam, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị: (i) Xem xét sửa đổi Nghị định số 58/2022/NĐ-CP ngày 31/8/2022 về việc đăng ký và quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với tinh thần Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 28/6/2025 của Ban Bí thư; (ii) Nghiên cứu xây dựng luật thay thế Pháp lệnh số 25/L/CTN ngày 07/9/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; (iii) Quy định tiêu chí cụ thể những tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tổ chức đặc biệt nào được khuyến khích hiện diện tại Việt Nam.
Về xử lý khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các dự án hợp tác với các đối tác nước ngoài có tính chất trọng điểm, chiến lược: Một số ý kiến cho rằng, chính sách xử lý khó khăn, vướng mắc phải hướng đến căn nguyên, đặc biệt là vướng mắc về xung đột áp dụng pháp luật, chứ không phải đối với các dự án cụ thể; Đề nghị quy định rõ tiêu chí xác định “dự án có tính chất trọng điểm, chiến lược” và bổ sung cơ chế báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cơ chế giám sát của các cơ quan của Quốc hội.
Đối với việc hội nhập quốc tế của doanh nghiệp, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại tán thành với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, đề nghị đảm bảo đồng bộ, thống nhất trong áp dụng các chính sách pháp luật về thuế, về việc thành lập Quỹ và sử dụng Quỹ.
Về tham gia các cơ chế hợp tác, diễn đàn, mạng lưới của các thành phố, đô thị lớn của chính quyền địa phương (Điều 16), Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị làm rõ căn cứ pháp lý; đồng thời, nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm tra, quản lý trong tổ chức thực hiện; rà soát và quy định cụ thể hơn về việc kế thừa các thỏa thuận đã ký với các đối tác quốc tế, đặc biệt là với các thỏa thuận được ký bởi cấp tỉnh, huyện trước đây và các địa phương sau sáp nhập, sắp xếp lại.
Đối với Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị: (i) Làm rõ hơn các tình huống thực tế phát sinh nhu cầu mua nhà thực tế được xem là khẩn cấp trong thời gian qua; (ii) Nghiên cứu, đề xuất bổ sung các chính sách đối với cơ quan đại diện ngoại giao khi sửa đổi Luật Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Về nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện Nghị quyết, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị rà soát đầy đủ, đánh giá tác động của các chính sách đặc thù được quy định trong dự thảo Nghị quyết đối với ngân sách nhà nước hàng năm.
