Kết quả chung: ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%
Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một số nhận xét, đánh giá như sau: Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Hai là, nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực.
Nông nghiệp được mùa
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp tăng 2,2%; lâm nghiệp tăng 3,8%; thuỷ sản tăng 5,4%.
Sản lượng lương thực có hạt năm 2009 ước tính đạt 43,3 triệu tấn, tăng 24,4 nghìn tấn so với năm 2008, trong đó sản lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 165,7 nghìn tấn; sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 141,3 nghìn tấn.
Diện tích cây lâu năm: chè đạt 128,1 nghìn ha, tăng 2,6 nghìn ha so với năm trước; cà phê 537 nghìn ha, tăng 6,1 nghìn ha; cao su 674,2 nghìn ha, tăng 42,8 nghìn ha; hồ tiêu 50,5 nghìn ha, tăng 0,6 nghìn ha. Sản lượng một số cây lâu năm tăng khá, trong đó chè búp ước tính đạt 798,8 nghìn tấn, tăng 7% so với năm 2008 (diện tích cho sản phẩm tăng 2,7%; năng suất tăng 4,2%); cao su 723,7 nghìn tấn, tăng 9,7% (diện tích cho sản phẩm tăng 5,6%; năng suất tăng 3,8%); hồ tiêu 105,6 nghìn tấn, tăng 7,2% (diện tích cho sản phẩm tăng 4,5%; năng suất tăng 2,6%).
Tại thời điểm 01/10/2009, đàn lợn cả nước có 27627,7 nghìn con, tăng 3,5% so với cùng thời điểm năm trước; đàn gia cầm có 280,2 triệu con, tăng 12,8%; đàn trâu có 2886,6 nghìn con, giảm 0,4%; đàn bò có 6103,3 nghìn con, giảm 3,7%. Sản lượng sản phẩm chăn nuôi năm 2009 vẫn đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước tính đạt 75 nghìn tấn, tăng 4,8% so với năm 2008; sản lượng thịt bò đạt 257,8 nghìn tấn, tăng 13,7%; sản lượng thịt lợn đạt 2931,4 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng thịt gia cầm đạt 502,8 nghìn tấn, tăng 12,2%; trứng gia cầm đạt 5952,1 triệu quả, tăng 9%.
Diện tích rừng trồng tập trung năm 2009 ước tính đạt 212 nghìn ha, tăng 5,9% so với năm 2008. Diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng năm 2009 ước tính đạt 1032 nghìn ha, tăng 5,2% so với năm trước; số cây trồng phân tán đạt 180,4 triệu cây, giảm 1,8%; diện tích rừng được chăm sóc 486 nghìn ha, tăng 4,3%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 3766,7 nghìn m3, tăng 5,7%. Những địa phương có sản lượng gỗ khai thác lớn là: Tuyên Quang 218 nghìn m3; Yên Bái 200 nghìn m3; Quảng Ngãi 180 nghìn m3; Quảng Nam 169 nghìn m3; Bình Định 167 nghìn m3; Hoà Bình 135 nghìn m3.
Tổng diện tích rừng bị cháy và bị phá năm 2009 là 3221 ha, giảm 18,8% so với năm 2008, trong đó diện tích rừng bị cháy 1658 ha, giảm 1,2%; diện tích rừng bị chặt phá 1563 ha, giảm 30,3%.
Sản lượng thuỷ sản năm 2009 ước tính đạt 4847,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm 2008, trong đó cá đạt 3654,1 nghìn tấn, tăng 5,3%; tôm 537,7 nghìn tấn, tăng 7,2%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2009 ước tính đạt 2569,9 nghìn tấn, tăng 4,2% so với năm trước. Tính chung số lồng bè nuôi thuỷ sản năm 2009 của cả nước đạt 98,4 nghìn chiếc, tăng 12,6 nghìn chiếc (tăng 14,7%) so với năm 2008.
Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2009 ước tính đạt 2277,7 nghìn tấn, tăng 6,6% so với năm trước (tốc độ tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây), trong đó khai thác biển đạt 2086,7 nghìn tấn, tăng 7,2%.
Công nghiệp tăng trưởng khá
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2009 theo giá so sánh 1994 giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2008; các tháng tiếp theo tuy đạt mức tăng trưởng dương nhưng với tốc độ thấp (Bình quân 6 tháng đầu năm chỉ tăng 4,8%); nhưng những tháng cuối năm đã tăng trên dưới 10% (Tháng 8 tăng 9,9%; tháng 9 tăng 12,4%; tháng 10 tăng 9,2%; tháng 11 tăng 10,8% và tháng 12 tăng 13,4%). Tính chung cả năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính đạt 696,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 3,7%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,1% (dầu mỏ và khí đốt tăng 9,2%, các ngành khác tăng 8%).
Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung là: Điều hòa nhiệt độ tăng 41,8%; khí hóa lỏng tăng 39,3%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,5%; xà phòng tăng 20,2%; xi măng tăng 19,2%; thép tròn tăng 19,1%; điện sản xuất tăng 11,9%; thuốc lá điếu tăng 10,5%; than sạch tăng 9,9%; dầu thô khai thác tăng 9,8%; nước máy thương phẩm tăng 9,7%; bia tăng 8,5%.
Một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn có tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả nước là: Quảng Ninh tăng 15,8%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Đồng Nai tăng 10,6%; Bình Dương tăng 10,3%; Khánh Hòa tăng 10%; Hà Nội tăng 9,4%; Cần Thơ tăng 9,1%; Đà Nẵng tăng 8,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Hải Phòng tăng 7,7%. Bên cạnh đó, một số tỉnh có tốc độ tăng thấp như: Hải Dương tăng 6,2%; Phú Thọ tăng 5,3%; Vĩnh Phúc tăng 5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 3,1%.
Bình quân mỗi người chi tiêu hơn 1 tỷ đồng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008.
Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9%.
Vận tải hành khách và hàng hoá nhộn nhịp
Vận tải hành khách năm 2009 ước tính tăng 8,2% về số khách vận chuyển và tăng 6,2% về số khách luân chuyển so với năm 2008, trong đó vận tải hành khách đường bộ tăng 8,6% và tăng 9,3%; đường sông tăng 4,5% và tăng 4,6%; đường sắt giảm 2,6% và giảm 7,9%; đường không tăng 4,2% và giảm 1,6%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển năm 2009 ước tính tăng 4,1% về khối lượng hàng hoá vận chuyển và tăng 8,6% về khối lượng hàng hoá luân chuyển so với năm trước.
Bình quân hai người một máy điện thoại
Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm 2009 ước tính đạt 41,7 triệu thuê bao, tăng 40,8% so với năm 2008, bao gồm 4 triệu thuê bao cố định, tăng 43,1% và 37,7 triệu thuê bao di động, tăng 40,5%. Số thuê bao điện thoại của cả nước tính đến cuối tháng 12/2009 là 123 triệu thuê bao, tăng 51,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 18,1 triệu thuê bao cố định, tăng 28,4% và 104,9 triệu thuê bao di động, tăng 56,1%.
Cứ 4 người có một người sử dụng Internet
Số thuê bao Internet có đến cuối tháng 12/2009 đạt 3 triệu thuê bao, tăng 45,5% so với cùng thời điểm năm 2008. Số người sử dụng Internet tính đến cuối năm 2009 ước tính 22,9 triệu lượt người, tăng 10,3% so với thời điểm cuối năm 2008. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm 2009 ước tính đạt 94,9 nghìn tỷ đồng, tăng 39,7% so với năm 2008.
Đầu tư phát triển chiếm 42,8% GDP
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, trong đó khu vực Nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm.
Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 bằng 7% GDP
Từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính thu đạt xấp xỉ dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính bằng 96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 99,6%; chi trả nợ và viện trợ bằng 102,7%. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 bằng 7% GDP, thực hiện được mức Quốc Hội đề ra.
Xuất khẩu hàng hoá 56,6 tỷ USD
Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008. Nhờ vậy, mặc dù kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của các quý trước giảm mạnh nhưng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008.
Nhập siêu bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009
Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 8 tháng đầu năm chỉ đạt gần 41,8 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm trước. Từ tháng 9, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước với tốc độ tăng lần lượt là: 13,9%, 14,5%, 44,5% và 15,7%. Do vậy, tính chung cả năm 2009, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,9 tỷ USD, giảm 10,8%.
Trong các nhóm hàng nhập khẩu năm 2009, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm tỷ trọng 29,5% tổng kim ngạch nhập khẩu; nguyên nhiên vật liệu chiếm 61,3%; hàng tiêu dùng chiếm 8,7%; vàng chiếm 0,5%. Về thị trường nhập khẩu, 8 đối tác chủ yếu chiếm hơn 85% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 gồm: Trung Quốc 16,1 tỷ USD, tăng 2,7% so với năm 2008; ASEAN 13,4 tỷ USD, giảm 31,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, giảm 11,3%; Hàn Quốc 6,7 tỷ USD, giảm 5,3%; Đài Loan 6,2 tỷ USD, giảm 25,9%; EU 5,5 tỷ USD, tăng 2,2%; Mỹ 2,8 tỷ USD, tăng 9,1%; Ôx-trây-li-a 1 tỷ USD, giảm 24%. Tuy kim ngạch nhập khẩu có tốc độ giảm cao hơn kim ngạch xuất khẩu nhưng nhập siêu hàng hoá năm 2009 ước tính vẫn ở mức 12,2 tỷ USD, giảm 32,1% so với năm 2008 và bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009.
Chỉ số giá tiêu dùng thấp nhất trong 6 năm trở lại đây
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc hội đã thông qua. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008, thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%).
An sinh xã hội được quan tâm sâu sắc, tỷ lệ hộ nghèo giảm
Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2009 ước tính gần 23,2 nghìn tỷ đồng, gấp gần 2 lần năm 2008.
Tổng số tiền cứu trợ từ các nguồn cho các địa phương bị thiệt hại do thiên tai là 888,6 tỷ đồng và hơn 25 nghìn tấn gạo, trong đó số tiền cứu trợ từ quỹ dự phòng ngân sách trung ương là 750 tỷ đồng và hơn 25 nghìn tấn gạo.
Thực hiện các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo như: Chương trình 134; Chương trình 135; Chương trình 30a và nhiều Chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn; cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo, v.v. Trong dịp Tết Kỷ Sửu, Chủ tịch nước, chính quyền địa phương, các cơ quan, đoàn thể và cá nhân đã hỗ trợ và tặng quà cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách tổng trị giá trên 1,3 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2009 đã có 37,6 nghìn ngôi nhà cho người nghèo và đối tượng chính sách được xây mới và sửa chữa với tổng trị giá 400 tỷ đồng; cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí cho 5 triệu lượt người thuộc diện chính sách.
Để khắc phục tình trạng thiếu đói, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43 nghìn tấn lương thực và 65,2 tỷ đồng, riêng tháng 12/2009 hỗ trợ 5,3 nghìn tấn lương thực và 23,9 tỷ đồng.
Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13%.
Tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 ước tính 12,3%, thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008.
Chuẩn phố cập giáo dục tiểu học và trung học
Năm học 2008-2009 cả nước có 444 nghìn phòng học cho cả ba cấp, tăng 5,4 nghìn phòng so với năm học trước. Sau một năm triển khai thực hiện Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, đã xây dựng được 9,5 nghìn phòng học và 16,6 nghìn phòng học khác đang xây dựng, đạt 88,1% kế hoạch; 4,2 nghìn nhà công vụ đã xây dựng hoàn thành và 4,9 nghìn nhà công vụ khác đang xây dựng, đạt 93,1%.
Tính đến hết tháng 8/2009, số trường mầm non và phổ thông được công nhận đạt chuẩn quốc gia của cả nước là 8672 trường, bao gồm 1644 trường mầm non; 5254 trường tiểu học; 1573 trường trung học cơ sở và 201 trường trung học phổ thông. Tính đến tháng 12/2009, cả nước đã có 48/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 56/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
200 sinh viên/1 vạn dân
Tính đến hết tháng 8/2009, cả nước có 376 trường đại học, học viện và trường cao đẳng, bao gồm 150 trường đại học, học viện và 226 trường cao đẳng. Cả nước đã có 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trường đại học, cao đẳng (Đắk Nông là tỉnh duy nhất chưa xây dựng trường đại học, cao đẳng). Số sinh viên đại học, cao đẳng năm học 2008-2009 là 1,72 triệu sinh viên, tăng 7% so với năm học trước, đạt chỉ tiêu trên 200 sinh viên/1 vạn dân, sớm hơn kế hoạch đề ra 1 năm; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 625,8 nghìn học sinh, tăng 1,8%.
Đào tạo nghề 1645 nghìn lượt người
Công tác đào tạo nghề được tập trung đầu tư nên năm 2009 các cơ sở dạy nghề đã tuyển được 1645 nghìn lượt người, vượt 0,3% kế hoạch đề ra. Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, theo đó mỗi năm sẽ đào tạo cho 1 triệu lao động với tổng kinh phí thực hiện Đề án là 25980 tỷ đồng. Giai đoạn I của Đề án thực hiện năm 2009-2010 đã đào tạo được 800 nghìn lao động; đồng thời thí điểm các mô hình đào tạo nghề cho 18 nghìn lao động khác. Mỗi lao động nông thôn trong diện đào tạo được hỗ trợ phí đào tạo nghề dưới 3 tháng với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khoá và được hỗ trợ tiền ăn, chi phí đi lại.
Lễ hội tưng bừng
Nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao và lễ hội với quy mô lớn được tổ chức tại các địa phương trong năm nay như: Lễ hội chào đón Xuân Kỷ Sửu; kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minhh; kỷ niệm 55 chiến thắng Điện Biên Phủ; Triển lãm 40 năm ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Tuần văn hoá Du lịch Quảng Nam hướng đến 1000 năm Thăng Long-Hà Nội; Festival lúa gạo tại Hậu Giang; Festival cồng chiêng quốc tế tại Gia Lai; Festival ngày văn hoá, thể thao, du lịch Mê Công-Nhật Bản tại Cần Thơ; Tuần Văn hoá Cam-pu-chia tại Việt Nam và nhiều lễ hội khác, v.v.
Thể thao thành tích cao giành 879 huy chương các loại
Trong năm 2009, ngành Thể dục Thể thao đã tổ chức thành công 16 giải thể thao quần chúng cấp quốc gia; phối hợp với các Bộ, ngành tổ chức 5 giải thể thao quần chúng khác và 1 giải thể thao quốc tế. Tại Para Games 5 tổ chức ở Ma-lai-xi-a, đoàn thể thao người khuyết tật Việt Nam đã thi đấu xuất sắc và giành vị trí thứ 3 toàn đoàn với tổng số 175 huy chương, trong đó có 73 huy chương vàng; 57 huy chương bạc và 45 huy chương đồng.
Trong thể thao thành tích cao, đoàn thể thao Việt Nam cũng đã giành được 879 huy chương các loại (341 huy chương vàng; 276 huy chương bạc; 262 huy chương đồng). Tại Đại hội thể thao Châu á trong nhà lần thứ 3 (AIG 3) tổ chức tại Việt Nam, đoàn thể thao Việt Nam xếp vị trí thứ 2 toàn đoàn trên tổng số 43 đoàn tham gia và giành được 94 huy chương các loại, gồm 42 huy chương vàng; 30 huy chương bạc; 22 huy chương đồng. Đặc biệt, tại Đại hội thể thao Đông-Nam á lần thứ 25 (SEA Games 25), đoàn Việt Nam đứng vị trí thứ 2 trong tổng số 11 đoàn tham gia với thành tích 83 huy chương vàng; 75 huy chương bạc và 57 huy chương đồng.