Đào tạo nguồn nhân lực: Cần có một lộ trình, khả thi và rõ ràng

Năng lượng hạt nhân vẫn đang được sử dụng có hiệu quả trên thế giới, được khẳng định là nguồn năng lượng không thể thay thế, nhất là trong bối cảnh các nguồn nhiên liệu hoá thạch và các nguồn năng lượ

Tại Việt Nam, theo kế hoạch của Chính phủ đến năm 2020 nước ta sẽ có 2 nhà máy ĐHN với tổng công suất là 4.000 MW và đến năm 2030 dự kiến có 15.000 MW ĐHN. Thấy rõ vai trò quan trọng của vấn đề nguồn nhân lực cho một ngành công nghiệp hiện đại, tiên tiến bậc nhất, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có những quyết sách kịp thời và đúng đắn: Thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT; ngày 18/8/2010, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT" (đề án 1558). Để thấy rõ hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho chương trình ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình, chúng tôi xin điểm qua thực trạng nguồn nhân lực hiện có và nhu cầu từ nay đến 2020 (năm dự kiến tổ máy đầu tiên phát điện) trong lĩnh vực này.

Thực trạng nguồn nhân lực trong nước

Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, mỗi nhà máy ĐHN tại Ninh Thuận cần 1.100 người với cơ cấu trình độ: Đại học (442 người), cao đẳng nghề (461 người) và lao động phổ thông (197 người). Nhân lực cho cơ quan pháp quy khoảng 320 người, Cục NLNT: 80 người, Viện NLNT Việt Nam (bao gồm cả Trung tâm KH&CN Hạt nhân): 1.200. Tổng số nhân lực phục vụ chương trình ĐHN vào khoảng 2.500 người có trình độ cao đẳng và đại học, trong đó hơn 2.000 người có trình độ đại học và trên đại học (trong số đó cần có một số đáng kể các chuyên gia và cán bộ trình độ cao). Theo nhu cầu trên, từ nay đến năm 2020, chúng ta phải đào tạo khoảng 500 người có trình độ cao đẳng, 1.100 người có trình độ đại học, trên đại học và chuyên gia (đó là chưa kể cần đào tạo bổ sung cho số cán bộ sẽ nghỉ hưu từ nay đến năm 2020, đây là số cán bộ có kinh nghiệm và trình độ mà phải mất nhiều năm mới đào tạo được).

Câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý là làm thế nào đào tạo được nguồn nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng theo yêu cầu nghiêm ngặt trong vận hành và nghiên cứu phát triển ĐHN. Theo Đề án 1558, hiện cả nước có 6 đơn vị có nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho chương trình ĐHN đó là: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh), Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Điện lực và Trung tâm Đào tạo (Viện NLNT Việt Nam). Thống kê cho thấy, cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo nhân lực cho ĐHN của cả nước rất thiếu, cán bộ có trình độ càng thiếu; trong 6 cơ sở đào tạo chỉ có 4 PGS (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh mỗi đơn vị có 1 PGS.TS; Trường Đại học Đà Lạt có 2 PGS.TS). Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh có số lượng cán bộ nhiều nhất (23 người) và cũng là đơn vị có nhiều TS nhất (6 TS, 1 PGS), tiếp theo là Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với 19 cán bộ (tuy nhiên chỉ có 1 TS, không có PGS)... Thiết bị phục vụ giảng dạy tại các cơ sở này cũng rất thiếu (có cơ sở còn chưa có một thiết bị nào) và chỉ là các thiết bị phục vụ cho đào tạo vật lý hạt nhân, chưa có các thiết bị phục vụ đào tạo cho ĐHN và an toàn hạt nhân.

Mục tiêu cụ thể của Đề án 1558 đặt ra đến năm 2015 là quy hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở giáo dục đại học, trung tâm đào tạo chuyên ngành phục vụ nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT, trong thời gian đầu sẽ tập trung cho 5 trường đại học và 1 trung tâm đào tạo.

Để phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, các đơn vị đào tạo thuộc Đề án 1558 đã xây dựng kế hoạch cho mình. Bộ KH&CN đã thành lập tổ công tác đào tạo nhân lực cho chương trình ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình, đặc biệt là phục vụ chương trình ĐHN. Từ năm 2012, Bộ đã xây dựng đề án và gửi nhiều cán bộ trẻ sang đào tạo ngắn hạn tại nước ngoài. Ngoài ra, Bộ còn có các đề án hợp tác đào tạo với Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA), với cộng đồng chung châu Âu (EC), các hợp tác song phương với Nga và Nhật Bản... và đã có nhiều lượt cán bộ (chủ yếu là cán bộ trẻ) đã được đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn và đào tạo sau đại học tại các nước có nền công nghiệp ĐHN tiên tiến. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã chủ động gửi người đi đào tạo tại Nga, Nhật Bản, Séc, Pháp. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ký kết văn bản hợp tác với Hungary đề cử một số cán bộ giảng dạy sang Hungary học tập với thời lượng 6 tuần/1 khóa học.

Đề xuất mô hình đào tạo

Việc gửi cán bộ đi đào tại các nước có nền công nghiệp ĐHN tiên tiến sẽ giúp nâng cao đáng kể chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp ban đầu chứ không phải là cách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tối ưu. Cách phát triển nguồn nhân lực bền vững nhất là phải đảm bảo được việc chủ động đào tạo nguồn nhân lực trong nước. Về trang thiết bị, các nước có nền khoa học tiên tiến đều có sự kết hợp rất hiệu quả giữa cơ sở nghiên cứu và cơ sở đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo với nhau, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực và thiết bị máy móc. Về con người, do nhu cầu nhân lực về số lượng và trình độ rất cao, trong khi tại các cơ sở đào tạo, nhân lực (giáo viên) còn rất hạn chế cả về số lượng và trình độ. Do đó, cần có chính sách để nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tại các cơ sở đào tạo này. Việc đào tạo có thể tiến hành trong nước và nước ngoài, có thể chia ra đào tạo ngắn hạn dài hạn và đào tạo bằng cấp ThS, TS…).

Đề án 1558 đã chỉ ra 6 cơ sở tham gia đào tạo nhân lực cho chương trình ứng dụng NLNT vào mục đích hòa bình. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho các cơ sở này xây dựng, phát triển để có thể đảm đương được việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên, thiết bị phục vụ nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực NLNT, đặc biệt trong lĩnh vực ĐHN rất đắt. Do vậy, nên chăng đầu tư có trọng điểm vào 2 cơ sở đào tạo, một ở miền Bắc và một miền Nam. Sở dĩ đưa ra hai cơ sở đào tạo mà không phải một bởi vì nước ta dài và hẹp, khoảng cách giữa Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh gần 2.000 km, việc thành lập hai cơ sở sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người học và người dạy. Khi đã thành lập hai cơ sở đào tạo trọng điểm rồi, bắt đầu tiến hành đầu tư con người và trang thiết bị, đặc biệt là con người. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ giao cho hai cơ sở này chủ trì xây dựng chương trình đào tạo, có cơ chế tài chính ưu tiên, có chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng giáo viên... Về phòng thí nghiệm, cần có sự đầu tư mạnh để có thể có được các thiết bị tốt và đầy đủ phục vụ đào tạo. Ngoài ra, để việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chương trình ĐHN có hiệu quả thì chính sách thu hút sinh viên giỏi vào học cần được sớm thực hiện, bởi vì hiện nay trình độ sinh viên đăng ký học đại học ngành hạt nhân chưa cao và số lượng không nhiều.

Công nghệ hạt nhân đòi hỏi có đủ cả 3 thành phần: chuyên gia, kỹ thuật viên và thợ lành nghề. Để đào tạo được nguồn nhân lực đủ cả về số lượng và chất lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của chương trình ĐHN nói riêng, chương trình ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình nói chung cần có một lộ trình khoa học, khả thi và rõ ràng.