
Bộ Tài chính cho biết, Thông tư số 203/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn xử lý hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan đã quy định cụ thể thời gian, trình tự, thủ tục, các nội dung công việc cụ thể các đơn vị liên quan thực hiện trong quá trình xử lý hàng hóa tồn đọng trong địa bàn hoạt động hải quan; tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan Hải quan thực hiện xử lý hàng hóa tồn đọng trong địa bàn hoạt động hải quan được thống nhất, chặt chẽ, đạt hiệu quả, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, Thông tư số 203/2014/TT-BTC được ban hành và thực hiện từ năm 2014 đến nay, trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số vấn đề vướng mắc, tồn tại, chưa phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra, Nghị định số 77/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân có những quy định mới về xử lý hàng tồn đọng tại địa bàn hoạt động hải quan; cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan hải quan cũng có sự thay đổi. Do đó, việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung quy định hướng dẫn thủ tục liên quan đến việc xử lý hàng tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan, khắc phục những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, tạo cơ sở pháp lý để việc xử lý hàng hóa tồn đọng hiệu quả hơn, phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước là cần thiết.
Tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 203/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan, Bộ Tài chính dự kiến sửa đổi, bổ sung một số nội dung như:
Về phạm vi điều chỉnh, Bộ Tài chính dự kiến sửa đổi khoản 3 Điều 1 Thông tư số 203/2014/TT-BTC như sau:
"3. Thông tư này không điều chỉnh đối với:
a) Hàng hóa tồn đọng ngoài địa bàn hoạt động hải quan hoặc hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan nhưng không thuộc đối tượng giám sát hải quan;
b) Hàng hóa tồn đọng là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, vật chứng của vụ án được xử lý theo quy định của pháp luật chuyên ngành;
c) Hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam được xử lý theo quy định pháp luật về xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam."
Bộ Tài chính cho biết, lý do sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình sự và các pháp luật khác có liên quan.
Về đối tượng áp dụng của Thông tư, Bộ Tài chính dự kiến bổ sung thêm "hãng hàng không" và "người vận chuyển" vào đối tượng áp dụng của Thông tư tại khoản 5 Điều 2 Thông tư số 203/2014/TT-BTC như sau:
"5. Hãng tàu; hãng hàng không; đại lý hãng tàu, hãng hàng không; đại diện theo ủy quyền của hãng tàu, hãng hàng không; doanh nghiệp vận chuyển, giao nhận hàng hóa (sau đây gọi chung là người vận chuyển)".
Lý do là để chi tiết hóa phạm vi điều chỉnh đối với chủ thể thực hiện hoạt động vận chuyển hàng hóa là các hãng hàng không hoặc đại lý hãng hàng không, đại diện theo ủy quyền của hãng hàng không và doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa. Đây là các chủ thể chính trong hoạt động vận chuyển hàng hóa, nắm giữ thông tin của chủ hàng và hàng hóa tồn đọng.
Về quy định chủ thể thông báo tìm chủ hàng hóa tồn đọng và thời gian nhận hàng
Dự thảo dự kiến sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 5 Thông tư số 203/2014/TT-BTC:
"2. Hàng hóa mà chủ hàng hóa thực hiện hành vi chứng tỏ việc từ bỏ là hàng hóa thuộc đối tượng giám sát hải quan thuộc địa bàn hoạt động hải quan (cảng biển, cảng thủy nội địa tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài, cảng nội địa ICD, địa điểm thu gom hàng lẻ, kho ngoại quan, cảng hàng không, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và các địa bàn hoạt động hải quan khác) mà chủ hàng không đến nhận, không hồi đáp khi được doanh nghiệp quản lý hàng tồn đọng thông báo".
Bộ Tài chính giải thích lý do đề xuất trên như sau: Về chủ thể thực hiện thông báo, khoản 2 Điều 5 đang quy định hàng hóa mà chủ hàng thực hiện hành vi chứng tỏ việc từ bỏ là hàng hóa thuộc đối tượng giám sát hải quan thuộc địa bàn hoạt động hải quan mà chủ hàng không đến nhận, không hồi đáp sau khi được cơ quan có thẩm quyền thông báo. Tuy nhiên điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 5 quy định trách nhiệm thông báo của chủ kho ngoại quan, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính, và người vận chuyển hàng hóa, hành lý qua đường hàng không (là các doanh nghiệp). Vì vậy để thống nhất về mặt thuật ngữ pháp lý, sửa đổi cụm từ "sau khi được cơ quan có thẩm quyền thông báo" thành "khi được doanh nghiệp quản lý hàng tồn đọng thông báo".
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính dự kiến bổ sung điểm d vào khoản 2 Điều 5 Thông tư số 203/2014/TT-BTC như sau:
"d) Thời hạn đến nhận hàng đối với hàng hóa tại các khu vực khác thuộc địa bàn hoạt động hải quan mà không thuộc quy định tại điểm a, b, c khoản này là 90 ngày kể từ ngày thông báo."
Lý do: Về thời hạn đến nhận hàng hóa, Điều 5 đã quy định thời hạn đến nhận hàng hóa tại kho ngoại quan, qua doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính, tại cảng hàng không, nhưng chưa có quy định đối với các trường hợp khác thuộc địa bàn hoạt động hải quan.
Bổ sung trách nhiệm của người vận chuyển trong việc xử lý hàng hóa tồn đọng
Bộ Tài chính dự kiến bổ sung tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 203/2014/TT-BTC như sau: "2. Người vận chuyển, doanh nghiệp quản lý hàng hóa tồn đọng có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến lô hàng hóa tồn đọng khi có đề nghị cần làm rõ của cơ quan Hải quan".
Bộ Tài chính cho biết, lý do của đề xuất trên: Thứ nhất, Điều 4 Thông tư số 203/2014/TT-BTC đã quy định người vận chuyển có trách nhiệm cung cấp thông tin về danh sách vận đơn quá 90 ngày kể từ ngày hàng đến cửa khẩu nhập chưa có người nhận cho doanh nghiệp kinh doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi để làm cơ sở theo dõi, tổng hợp tình hình hàng hóa tồn đọng. Thứ hai, thực tế xử lý hàng hóa tồn đọng, cơ quan hải quan phản ánh đã gặp nhiều khó khăn khi xác minh nguồn gốc hàng hóa và thông tin chủ hàng do không có đẩy đủ thông tin, không nhận được sự phối hợp của các bên liên quan đặc biệt là trường hợp người gửi hàng nước ngoài. Vì vậy để thống nhất với cách quy định tại Điều 4 và để tạo điều kiện cho cơ quan hải quan thu thập thông tin trong các trường hợp cần thiết phải xử lý hàng hóa tồn đọng nhanh chóng, cần thiết bổ sung người vận chuyển là chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin khi có đề nghị của cơ quan hải quan.
Về nghĩa vụ của thương nhân khi thực hiện quyền cầm giữ, lưu giữ, định đoạt theo pháp luật thương mại
Dự thảo dự kiến bổ sung khoản 3 vào Điều 6 Thông tư số 203/2014/TT-BTC như sau:
3. Trường hợp người vận chuyển, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đã thực hiện quyền lưu giữ, định đoạt đối với hàng hóa tồn đọng, sau đó từ bỏ quyền lưu giữ, định đoạt và chuyển giao cho cơ quan hải quan xử lý theo quy định tại Thông tư này mà hàng hóa thuộc diện buộc tiêu hủy thì chi phí tiêu hủy do người vận chuyển, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chi trả".
Lý do của đề xuất trên là: Bộ luật Hàng hải và Nghị định số 169/2016/NĐ-CP ngày 07/12/2016 của Chính phủ quy định về quyền lưu giữ, định đoạt và xử lý với hàng hóa do hãng tàu vận chuyển để đảm bảo thanh toán tiền vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tàu và các khoản chi phí khác phát sinh liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển; Điều 123 Luật Thương mại quy định quyền cầm giữ, định đoạt của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics; Điều 239 Luật Thương mại quy định quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa; Điều 240 quy định về nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi cầm giữ hàng hoá.
Do đó, để tăng trách nhiệm của người vận chuyển và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong việc xử lý hàng hóa tồn đọng, ngăn chặn trường hợp các bên vận chuyển thiếu trách nhiệm khiến cảng biến Việt Nam thành nơi lưu giữ hàng hóa phế thải, phế liệu, hàng hóa gây ô nhiễm môi trường hoặc trường hợp hàng tàu, doanh nghiệp logistics kéo dài thời gian lưu giữ, định đoạt hàng hóa đến khi hàng hóa không còn giá trị, có khả năng phải tiêu hủy mới tuyên bố từ bỏ hàng hóa để chuyển giao cho cơ quan hải quan xử lý hàng hóa tồn đọng, dẫn đến tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước….