Hải quan điện tử - vai trò quan trọng trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới

Sau hơn 5 năm triển khai thí điểm, đến nay thủ tục hải quan điện tử đã được dư luận xã hội, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp quan tâm, đánh giá cao về tính hiệu quả và những tiện ích mang lại của ch

Sự cần thiết của hải quan điện tử đối với các doanh nghiệp XNK VN
Thực hiện thủ tục hải quan điện tử (HQĐT) là chủ trương lớn của Chính phủ, của các Bộ, Ngành. Vì vậy, khi thực hiện triển khai, Thủ Tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 103/2009/QĐ-TTg sửa đổi bổ sung Quyết định 149/2005/QĐ-TTg về việc thí điểm thủ tục hải quan điện tử; trong đó, từng bước cải cách hoạt động nghiệp vụ hải quan theo hướng phù hợp với chuẩn mực của hải quan hiện đại trong khu vực và thế giới; chuyển đổi từ thủ tục hải quan thủ công sang thủ tục hải quan điện tử; tổng kết, rút kinh nghiệm để hoàn thiện quy trình thủ tục hải quan điện tử.
Có thể thấy, thực hiện thủ tục HQĐT là chiến lược cải cách và hiện đại hoá của ngành Hải quan Việt Nam. Các doanh nghiệp đều nhận thấy rằng, tham gia thủ tục HQĐT sẽ tăng khả năng cạnh tranh trong môi trường thương mại quốc tế, giảm được thời gian thông quan và tiết kiệm chi phí.
Ngoài ra, mở rộng thủ tục HQĐT là góp phần thực hiện tốt việc đánh giá tổng thể thực trạng các thủ tục hành chính (TTHC) hiện hành, phát hiện các bất cập, trên cơ sở đó đưa ra các phương án giải quyết, hoàn thiện hệ thống TTHC theo hướng đơn giản, thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp; tạo bước chuyển căn bản trong cải cách TTHC, nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của TTHC; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội; góp phần phòng chống tham nhũng và lãng phí.
Triển khai thực hiện thủ tục HQĐT giúp doanh nghiệp chủ động về thời gian làm thủ tục hải quan, thay vì trước đây chỉ có thể khai báo hải quan trong giờ hành chính, nay hệ thống khai HQĐT của cơ quan hải quan tiếp nhận tờ khai 24/24h); quá trình khai báo, doanh nghiệp nhận được thông tin phản hồi từ cơ quan hải quan nhanh chóng, kịp thời, giúp cho việc khai báo được thuận lợi, chính xác; thực hiện khai HQĐT, doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí đi lại, phô tô, in ấn hồ sơ; điểm mấu chốt là thực hiện thủ tục HQĐT giúp thời gian thông quan lô hàng được rút ngắn (chỉ 3-5 phút), đối với lô hàng miễn kiểm tra, doanh nghiệp chỉ cần hoàn thành thủ tục hải quan qua mạng, đối với lô hàng phải kiểm tra thực tế thì thủ tục đơn giản, nhanh gọn hơn rất nhiều. Chính vì vậy, các doanh nghiệp XNK luôn mong muốn được hợp tác và sẵn sàng ủng hộ ngành Hải quan trong quá trình thực hiện thủ tục HQĐT.
Những kết quả trong quá trình áp dụng HQĐT tại Việt Nam:
Sau thời gian hơn 5 năm triển khai thí điểm hải quan điện tử tại 2 Cục Hải quan có lưu lượng hàng hóa lớn như Hải Phòng, Hồ Chí Minh có thể thấy, phương thức này đã đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp cũng như hoạt động thương mại, công tác quản lý xuất nhập khẩu.
Việc triển khai thí điểm trong thời gian qua cho thấy, doanh nghiệp đã chủ động khai báo điện tử, giảm tiếp xúc giữa doanh nghiệp với cơ quan hải quan, giảm phiền hà, tiêu cực. Bên cạnh đó đã nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, giai đoạn thí điểm tại 2 đơn vị (từ 2005-2009) thủ tục hải quan điện tử mới áp dụng đối với 3 loại hình là: hàng hóa kinh doanh hợp đồng thương mại; hàng hóa xuất, nhập khẩu để thực hiện hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài hoặc gia công tại nước ngoài và nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu. Theo phản ánh của nhiều DN, cùng với số lượng các đơn vị triển khai hải quan điện tử còn ít, danh mục hàng hóa được áp dụng hải quan điện tử mới dừng ở con số 3 đang khiến họ chịu nhiều thua thiệt so với các đối thủ ở nhiều nước trong khu vực, vì tại các quốc gia này, hải quan điện tử được triển khai rất rộng rãi.
Điều đáng lưu ý, Ngành Hải quan lần đầu tiên bắt đầu thí điểm triển khai hải quan điện tử năm 2005, đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng, một chặng đường phát triển mới trong việc thực hiện nhiệm vụ của Ngành. Theo số liệu của Cục Hải quan TPHCM, số lượng doanh nghiệp tham gia HQĐT tính đến thời điểm này là 409 đơn vị, chiếm 10% kim ngạch xuất nhập khẩu và 7% số thu của toàn cục. So với các tỉnh, thành hiện đang áp dụng HQĐT, số lượng doanh nghiệp của TPHCM tham gia HQĐT cao nhất cả nước.
Kết quả này cũng khẳng định, thủ tục hải quan điện tử là yêu cầu bắt buộc trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO, nhằm đảm bảo sự phù hợp, tương thích với xu thế phát triển chung và hoà nhập với hải quan thế giới và khu vực.
Nhằm khắc phục những hạn chế trong giai đoạn trước, triển khai đồng bộ và lan tỏa trên phạm vi toàn quốc, thúc đẩy công tác cải cách hiện đại hóa hải quan, Từ cuối năm 2009 đến nay, ngành Hải quan đã triển khai mở rộng thủ tục hải quan điện tử theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg với những kết quả cụ thể như sau: đã triển khai tại 30 Chi cục Hải quan, trong đó có 3 Cục Hải quan triển khai thủ tục hải quan điện tử tại 100% các Chi cục. Hơn 1.100 doanh nghiệp tham gia thực hiện thủ tục hải quan điện tử, chiếm tỉ lệ 2,63% số lượng doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan.
Những bất cập và tồn tại trong việc triển khai thủ tục HQĐT:
Mặc dù, việc triển khai thủ tục HQĐT đã đạt được những kết quả rất khích lệ, thể hiện rõ nhất qua thời gian thông quan giảm đáng kể, trung bình đối với luồng xanh còn 3-15 phút; luồng vàng 10 - 20 phút…, thì các DN được thụ hưởng những lợi ích của hải quan điện tử vẫn than phiền, bởi trong khi thủ tục hải quan đã được tinh giản, thì các thủ tục thuế, kiểm toán… liên quan vẫn không được tinh gọn tương ứng, khiến DN gặp nhiều khó khăn.
Cái khó nhất là nhận thức từ đội ngũ cán bộ công chức và cả DN tham gia hoạt động XNK. Bởi lẽ, những người làm công tác hải quan và cả phía DN chưa hình dung đầy đủ hình thức, hoạt động, vận hành... của HQĐT như thế nào, thì chưa thể có tin tưởng tuyệt đối. Điều này chưa nói đến tâm lý sợ rủi ro của cán bộ công chức hải quan và cả DN. Vì từ xưa đến nay, giải quyết các thủ tục XNK theo phương thức quản lý hải quan truyền thống, tất cả hồ sơ là giấy tờ, nhìn bằng mắt thường. Ngay cả việc khai báo hải quan từ xa, các DN cũng phải đến hải quan để nộp các hồ sơ, chứng từ bằng giấy. Nhưng khi thực hiện thủ tục hải quan điện tử, tất cả hồ sơ toàn là những dữ liệu điện tử, nằm hoàn toàn trên mạng...
Đặc biệt, khi nói đến HQĐT là phải nói đến cơ sở vật chất (máy tính, mạng, đường truyền...) nhưng việc đầu tư của Nhà nước cho công tác này cũng chưa đồng bộ. Hơn nữa, hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông của nước ta vẫn chưa tốt; phần cứng được trang bị rất nhiều đợt, nhiều chủng loại khác nhau; phần mềm chưa hoàn thiện, chưa triển khai được chữ ký số vào cuộc sống, con người sử dụng chưa thành thạo; hệ thống dự phòng cho HQĐT cũng còn hạn chế...
Khó khăn trong giai đoạn đầu thực hiện thủ tục HQĐT là điều không thể tránh khỏi. Nhưng thực hiện thủ tục HQĐT là một xu thế tất yếu và không thể đảo ngược. Do đó, trong thời gian tới, với sự ủng hộ, hợp tác tích cực hơn nữa của doanh nghiệp, các Bộ, Ngành liên quan và sự nỗ lực của bản thân ngành Hải quan, thủ tục HQĐT sẽ được thực hiện tốt hơn, qua đó thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia thủ tục HQĐT.
Giải pháp thực hiện HQĐT trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, ngành Hải quan sẽ thực hiện mở rộng thủ tục hải quan điện tử theo cả chiều rộng và chiều sâu. Về chiều rộng, Ngành triển khai trên phạm vi 13 Cục Hải quan: Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu. Về chiều sâu, Ngành sẽ mở rộng thực hiện đầy đủ 11 loại hình thủ tục hải quan điện tử theo quy định tại Thông tư 222/2009/TT-BTC với một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, ngành Hải quan tiếp tục tham mưu, đề xuất với cấp có thẩm quyền hoàn thiện khung pháp lý để triển khai hiệu quả thủ tục hải quan điện tử.
Thứ hai, ngành Hải quan tiếp tục triển khai nâng cấp hạ tầng CNTT phục vụ cho thủ tục hải quan điện tử (phần mềm, thiết bị phần cứng, đường truyền, an ninh, an toàn). Kết nối các trang thiết bị kiểm tra hiện đại (máy soi container…), kết nối với hệ thống thanh toán qua ngân hàng, hệ thống trao đổi thông tin qua kho bạc, cập nhật đầy đủ các cơ sở dữ liệu để nâng cao mức độ tự động hóa của hệ thống.
Thứ ba, tiếp tục phối hợp với các Bộ, Ngành và đơn vị liên quan để chuẩn hóa, mã hóa và xây dựng cơ chế cập nhật các danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu có điều kiện, các danh mục quản lý chuyên ngành.
Thứ tư, tiếp tục cải tiến quy trình thủ tục hải quan điện tử, đơn giản hóa hơn theo Đề án 30 và các chuẩn mực hải quan hiện đại, đáp ứng yêu cầu thực tế.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới ngành Hải quan sẽ đẩy mạnh tuyên truyền về thủ tục hải quan điện tử để giúp cho doanh nghiệp hiểu được đầy đủ lợi ích của thủ tục hải quan điện tử. Thủ tục HQĐT là xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.