Việc sửa đổi liên quan đến thay đổi thời hạn, nếu được thông qua, sẽ quy định rõ ràng hơn thời gian nộp các yêu cầu liên quan tới việc chọn mẫu trong các đợt rà soát AD và thời gian nộp các ý kiến đóng góp và phản biện cho các yêu cầu nêu trên. Việc sửa đổi này cũng tạo điều kiện cho DOC có cơ hội quyết định liệu cơ quan này có sử dụng phương pháp chọn mẫu (sampling) khi chọn các bị đơn điều tra riêng rẽ hay không, khi mà yêu cầu về chọn mẫu được gửi đúng thời hạn.
Nội dung chi tiết: Theo quy định tại phần 777A của Đạo luật Thuế quan 1930 đã được sửa đổi, DOC được chỉ định xác định biên độ phá giá bình quân gia quyền riêng rẽ cho từng nhà xuất khẩu và sản xuất hàng hoá thuộc đối tượng điều tra mà cơ quan này biết tới. Trong các đợt rà soát hành chính, quy định này áp dụng cho tất cả các nhà xuất khẩu và sản xuất đã được yêu cầu rà soát. Tuy nhiên, số lượng các nhà sản xuất/xuất khẩu (“các công ty”) liên quan trong một đợt rà soát chống bán phá giá là khá lớn dẫn tới việc DOC trong thực tế không thể thẩm tra từng công ty riêng rẽ. Phần 777A(c)(2) cho phép DOC giới hạn điều tra bằng cách: (A) chọn mẫu nhà xuất khẩu, sản xuất hoặc các loại sản phẩm có thể thống kê dựa trên các thông tin sẵn có của cơ quan có thẩm quyền tại thời điểm lựa chọn, hoặc (B) chọn các nhà xuất khẩu và sản xuất của nước xuất khẩu chiếm tỷ trọng hàng hoá thuộc đối tượng điều tra lớn nhất mà DOC xét thấy có thể điều tra một cách hợp lý. Tới thời điểm hiện tại, lựa chọn (B) vẫn thường được DOC sử dụng trong các vụ kiện khi cần giới hạn số lượng điều tra. Hệ quả của việc này là các công ty trong thuộc đối tượng điều tra hoặc rà soát có lượng nhập khẩu tương đối nhỏ thực tế thường sẽ bị loại trừ khỏi việc điều tra riêng rẽ. Qua thời gian, điều này tạo ra quan ngại về tính thực thi trong các đợt rà soát hành chính lệnh áp thuế chống bán phá giá bởi khi các nhà xuất khẩu chiếm lượng hàng hoá thuộc đối tượng điều tra nhỏ hơn ý thức được rằng thực tế họ được loại trừ khỏi việc điều tra riêng rẽ do phương pháp lựa chọn bị đơn của DOC, họ có thể quyết định hạ giá thấp hơn nữa do họ nhận ra rằng hành vi định giá của họ không tác động tới mức thuế chống bán phá giá được tính cho họ. Điều này đồng nghĩa với việc các công ty nhỏ này tiếp tục hành vi bán phá giá mà không cần quan tâm tới mức thuế. Việc chọn mẫu các công ty này theo quy định tại phần 777A(c)(2) của Đạo luật Thuế quan 1930, sửa đổi, là một cách để giải quyết quan ngại về tính thực thi của thông lệ này.
Nhằm giúp cho việc chọn mẫu trong các đợt rà soát hành chính nói chung, DOC đề xuất sửa đổi Điều 19 CFR phần 351.301 nhằm thiết lập thời hạn cho việc gửi yêu cầu chọn mẫu trong các đợt rà soát hành chính, và thời hạn cho các ý kiến đóng góp và phản biện do các bên liên quan nộp liên quan tới các yêu cầu về chọn mẫu này. Hiện tại, Điều 19 CFR 351.301 quy định thời hạn cho việc đệ trình các thông tin thực tế, bao gồm thời hạn chi tiết, thời hạn cho một số bản đệ trình nhất định như là các bản trả lời câu hỏi điều tra, và thời hạn cho các cáo buộc nhất định. DOC đề xuất sửa đổi quy định này theo đó sẽ bao gồm cả thời hạn cụ thể cho các bên liên quan đệ trình yêu cầu DOC sử dụng phương pháp chọn mẫu trong việc lựa chọn các nhà xuất khẩu hoặc sản xuất để điều tra riêng rẽ. Các thời hạn này phải đảm bảo rằng các bên có thể yêu cầu DOC chọn mẫu trong khi vẫn cho phép DOC hoàn thành vụ kiện theo đúng thời gian luật định.
Cụ thể, quy định đề xuất này sẽ yêu cầu bên liên quan trong nước theo quy định tại Điều 19 U.S.C phần 1677(9)(C), (D), (E), hoặc (F), hoặc bên liên quan theo quy định tại điều 19 U.S.C phần 1677(9)(A) thuộc đối tượng của đợt rà soát hành chính, nộp yêu cầu cho DOC để tiến hành chọn mẫu theo quy định tại Điều 19 U.S.C. phần 1677f-i(c)(2)(A), cùng với các ý kiến góp ý về dữ liệu của Cục Hải quan và Bảo vệ biên giới (CBP), trong thời gian 7 ngày sau khi DOC gửi dữ liệu của CBP cho các bên liên quan, trừ khi có quy định cụ thể khác. DOC cho rằng điều này sẽ không mang gánh nặng đáng kể vì bên yêu cầu sẽ phải nộp một bản đệ trình yêu cầu rằng DOC tiến hành rà soát dựa trên việc chọn mẫu khi họ muốn DOC tiến hành chọn mẫu trong các đợt rà soát hành chính AD
Theo đó, phần 351.301 Điều 19 CFR sẽ có thêm một đoạn mới (d) như sau:
§351.301 Thời hạn cho việc đệ trình các thông tin thực tế
*****
(d) Thời hạn cho việc đệ trình yêu cầu chọn mẫu trong các đợt rà soát hành chính lệnh áp thuế chống bán phá giá.
(1) Trong các đợt rà soát hành chính lệnh áp thuế chống bán phá giá, tất cả các bản đệ trình của các bên trong vụ kiện muốn yêu cầu DOC tiến hành chọn mẫu khi lựa chọn các bị đơn cho việc điều tra riêng rẽ theo quy định tại phần 777(c)(2)(A) của Đạo luật thông thường phải được nộp không muộn hơn 7 ngày sau khi DOC gửi dữ liệu của Cục Hải quan và Bảo vệ biên giới về các chuyến hàng hàng hóa thuộc đối tượng rà soát cho các bên liên quan. Bản yêu cầu gửi cho DOC tiến hành chọn mẫu trong đợt rà soát phải có các thông tin dưới đây:
(i) Một bản yêu cầu DOC tiến hành chọn mẫu các nhà xuất khẩu thuộc đối tượng rà soát; và
(ii) Các thông tin thực tế và ý kiến góp ý về việc liệu các thông tin thực tế được đệ trình có đưa ra cơ sở hợp lý để tin cậy hoặc nghi ngờ rằng giá xuất khẩu trung bình và/hoặc biên độ phá giá cho các nhà xuất khẩu lớn nhất là khác với thông tin của các nhà xuất khẩu còn lại.
(2) Các bên liên quan muốn góp ý về yêu cầu chọn mẫu phải đệ trình các ý kiến đóng góp trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu chọn mẫu(3) Các bên liên quan muốn đệ trình các phản biện về các ý kiến đóng góp đã được đệ trình theo đoạn (d)(2) của phần này phải đệ trình các phản biện này trong vòng 5 ngày kể từ ngày hết hạn đệ trình các ý kiến trong đoạn (d)(2).
Quy định đề xuất này nhằm thiết lập thời hạn đối với các yêu cầu chọn mẫu trong các đợt rà soát hành chính nhằm tạo điều kiện cho DOC có đủ thời gian để tiến hành chọn mẫu và hoàn thành rà soát hành chính theo thời hạn luật định. Ngoài ra, quy định này nhằm tạo điều kiện cho các bên có đủ thời gian để xem xét thông tin liên quan đến việc chọn mẫu và đưa ra ý kiến bình luận cho DOC và điều này lại cho phép DOC có đủ thông tin để đưa ra quyết định về việc liệu có sử dụng chọn mẫu trong bất kỳ đợt rà soát hành chính cụ thể nào không.
Số lượng và mô tả về các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thuộc phạm vi điều chỉnh của đề xuất
Quy định đề xuất này sẽ áp dụng cho tất cả những người nộp yêu cầu chọn mẫu cho DOC trong các đợt rà soát hành chính AD. Có nghĩa là bao gồm cả nhà xuất khẩu và nhà sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng điều tra vụ việc và các cơ sở liên kết, nhà nhập khẩu hàng hóa đó và nhà sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự.
Nhà xuất khẩu và nhà sản xuất hàng hóa bị điều tra ít khi là các công ty Hoa Kỳ. Một số nhà sản xuất và xuất khẩu hàng hóa bị điều tra có cơ sở liên kết tại Hoa Kỳ, một số họ có thể được coi là các doanh nghiệp nhỏ. DOC không thể dự đoán số lượng nhà xuất khẩu và cơ sở liên kết nội địa của nhà sản xuất mà có thể được coi là doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng có thể dự đoán, dựa trên kinh nghiệm của mình trong các vụ kiện là số lượng doanh nghiệp là không ít.
Các nhà nhập khẩu có thể là các công ty nước ngoài hoặc công ty Hoa Kỳ và một số doanh nghiệp này có thể được coi là có quy mô nhỏ. DOC không dự kiến rằng quy định đề xuất này sẽ ảnh hưởng tới số lượng lớn các nhà nhập khẩu có quy mô nhỏ vì các nhà nhập khẩu hàng hóa bị điều tra mà cũng không phải là nhà sản xuất và xuất khẩu (hoặc các cơ sở liên kết của họ) ít khi nộp bản yêu cầu rà soát hành chính và ít khi nộp thông tin thực tế trong quá trình của vụ kiện AD và những doanh nghiệp mà nộp yêu cầu thì thường là các doanh nghiệp lớn hơn.
Một số nhà sản xuất trong nước sản phẩm tương tự có thể được coi là có quy mô nhỏ. Mặc dù không thể dự tính được số lượng các nhà sản xuất có thể được coi là có quy mô nhỏ, DOC không dự kiến rằng số lượng các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đề xuất này sẽ là lớn. Thông thường, các nhà sản xuất nội địa nộp đơn kiện chiếm một phần lớn sản lượng sản xuất trong nước của ngành do đó khó có thể nói là những nhà sản xuất trong nước lại có quy mô nhỏ.
Nói tóm lại, trong khi công nhận là các cơ sở liên kết của nhà xuất khẩu và nhà sản xuất, các nhà nhập khẩu, và các nhà sản xuất nội địa mà nộp thông tin trong một vụ kiện AD có khả năng sẽ bao gồm một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ, DOC, dựa trên kinh nghiệm của mình, không cho rằng đề xuất này sẽ ảnh hưởng tới số lượng lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Mô tả về những lựa chọn thay thế khác nhau liên quan đến đề xuất này mà đảm bảo mục tiêu của quy định và giảm thiểu bất kỳ ảnh hưởng kinh tế đáng kể nào của đề xuất tới các doanh nghiệp có quy mô nhỏ
DOC phân tích hai lựa chọn thay thế cho đề xuất này. Lựa chọn thứ nhất, và là lựa chọn được ưu tiên, là thiết lập thời hạn cho việc đệ trình yêu cầu chọn mẫu. Theo lựa chọn này, các bên sẽ không bị chịu tác động kinh tế nào vì bản chất của quy định này hoàn toàn mang tính hành chính. Quy định này hướng dẫn cho các bên về thời hạn và quy trình để yêu cầu chọn mẫu.
Lựa chọn thứ hai, lựa chọn “không hành động”, sẽ quy định một
phương pháp chọn mẫu trong các vụ kiện AD và CVD mà không có hướng dẫn gì cho
các bên về thời hạn và quy trình để yêu cầu chọn mẫu. Lựa chọn này có thể cũng
không gây ảnh hưởng kinh tế nào hoặc có hơi có ảnh hưởng tiêu cực tới đối tượng
bị điều chỉnh do có thể gây ra sự mơ hồ do không có hướng dẫn và quy trình để
yêu cầu chọn mẫu. Mặc dù lựa chọn này đã được xem xét nhưng nó đã không được lựa
chọn vì không đảm bảo mục tiêu của DOC trong việc tạo ra sự chắc chắn và rõ
ràng cho các bên tham gia vụ việc AD và CVD.