Hội nhập, PVN đối diện nhiều thách thức

Sáng 26/9/2017, tại Hà Nội diễn ra Hội thảo “Ngành dầu khí trong bối cảnh hội nhập quốc tế” do Tạp chí Cộng sản, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cùng với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt

Tại Hội thảo “Ngành dầu khí trong bối cảnh hội nhập quốc tế” các học giả đã đánh giá chặng đường phát triển của ngành dầu khí Việt Nam trong hơn 55 năm qua, và khẳng định những thành tựu, những đóng góp của ngành dầu khí đối với tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia cũng như góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển Việt Nam.

Theo PGS,TS Vũ Văn Hà - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, ngành dầu khí là ngành kinh tế trọng điểm của đất nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của một số ngành công nghiệp mũi nhọn khác. Ngành dầu khí đóng góp hơn 20% trong tổng thu ngân sách quốc gia, đóng góp 16-18% GDP trong các năm qua.

PGS.TS Vũ Văn Hà, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản báo cáo đề dẫn Hội thảo

Bên cạnh đó, sự phát triển của ngành dầu khí còn góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược biển của Việt Nam, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên vùng biển của Việt Nam.

Phân tích những đóng góp lớn của ngành dầu khí với nền kinh tế đất nước, GS. TS. Vũ Văn Hiền - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cho biết, từ năm 1987 đến nay có hơn 77 hợp đồng dầu khí đã được ký kết, trong đó 53 hợp đồng đang còn hiệu lực. Tính đến đầu năm 2010 đã khoan trên 600 giếng khoan tìm kiếm - thăm dò và khai thác dầu khí với khối lượng khoan gần 1,9 triệu m3. Ngành dầu khí đóng góp phần lớn ngoại tệ cho quốc gia với các sản phẩm phục vụ nền kinh tế là điện khí, xăng dầu, khí nén cao áp và năng lượng sạch. Trong giai đoạn vừa qua, Tập đoàn Dầu khí cũng đã cung cấp gần 35 tỷ m3 khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35% - 40% nhu cầu u-rê và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu dùng dân sinh.

Cũng tại Hội thảo, các đại biểu đều chung một quan điểm, ngành dầu khí cần khẩn trương xây dựng hệ thống quản trị nhân sự theo chuẩn mực quốc tế, bao gồm ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin, xây dựng bản đồ năng lực; xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí người đại diện và đại diện phần vốn của PVN trong các hoạt động dầu khí trong nước và ngoài nước…

Tuy nhiên, Giáo sư, TSKH Hồ Sỹ Thoảng cũng chỉ rõ những thách thức, khó khăn mà PVN đang phải đối mặt: “PVN hiện nay đang gặp rất nhiều thách thức, khó khăn, đặc biệt giá dầu thấp đang tạo áp lực lớn lên Tập đoàn Dầu khí quốc gia”.

GS.TSKH Hồ Sỹ Thoảng trình bày tham luận tại Hội thảo

Cùng với đó, nhiều mỏ dầu chủ lực của Việt Nam sau nhiều năm khai thác đã bắt đầu suy giảm. Trong bối cảnh mới, việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia tìm kiếm, thăm dò dầu khí sẽ khó khăn. Nhiều dự án lớn của PVN, nhất là ở vùng khai thác xa bờ, độ sâu 1.500m có mức đầu tư cao, sức ép về vốn rất lớn, tuy nhiên việc vay vốn từ các tổ chức quốc tế ngày càng khó khăn. Chưa kể, nhu cầu nhân lực có trình độ kỹ thuật và công nghệ cao hiện không dễ để đáp ứng. Việc triển khai các dự án trọng điểm ở nước ngoài cũng đang khó khăn do hiệu quả kinh tế và những vấn đề chính trị của một số quốc gia.

Đồng quan điểm nhận định ngành dầu khí Việt Nam đối mặt nhiều khó khăn, thách thức, PGS.TS Vũ Văn Hà cho rằng, những khó khăn đó đến từ yếu tố chủ quan và cả những tác động khách quan trong bối cảnh hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng; sự cạnh tranh của các nguồn năng lượng khác, nhất là năng lượng sạch, tái tạo được và cả sự tác động của giá dầu giảm....

Trước tình hình đó, Giáo sư Hồ Sỹ Thoảng kiến nghị, PVN cần phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ; củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh với những bước đi và tốc độ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình… chính là “kim chỉ nam” để PVN có thể rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử nhiều doanh nghiệp thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có. Đây cũng có thể xem là “lối mở”, hợp quy luật đối với PVN trong bối cảnh hiện nay.

Toàn cảnh Hội thảo

Về mức độ hội nhập của ngành Dầu khí, đồng chí Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại đánh giá: “Cho đến nay, cam kết về mở cửa thị trường trong ngành dầu khí thì ngoài thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các cam kết khác thì TPP (Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU) là có mức độ sâu rộng nhất. Cam kết cắt giảm thuế quan thì Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là sâu nhất”.

Việc hội nhập sâu rộng đem lại nhiều cơ hội cho ngành Dầu khí Việt Nam phát triển, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức cần phải được nhìn nhận kỹ lưỡng. Do tác động của TPP, đến năm 2029, thuế nhập khẩu xăng dầu sẽ được loại bỏ, thị trường dầu khí cũng như các sản phẩm hóa dầu sẽ có tính cạnh tranh cao, không chỉ đối với các nhà đầu tư nước ngoài mà cả với những nhà nhập khẩu. Và, với sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), ngoài lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu, sẽ có sự chuyển dịch lao động trong khối. Theo đó, có thể một số lao động có tay nghề cao của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có thể chuyển sang tập đoàn dầu khí các nước ASEAN làm việc nếu điều kiện ở đó tốt hơn PVN (chảy máu chất xám) hoặc ngược lại.

Chiến lược phát triển ngành dầu khí nước ta đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025 đã xác lập các mục tiêu hàng năm như: gia tăng trữ lượng 35-40 triệu tấn; khai thác dầu khí tăng 10-36% cho từng giai đoạn 5 năm, trong đó từ nước ngoài phải gấp 3-5 lần so với mức hiện nay; các sản phẩm lọc và hóa dầu gấp 1,5 đến 5 lần so với hiện tại; doanh thu tăng trưởng 10-15%… là một thách thức trong bối cảnh giá dầu hiện nay.


Hoàng Hòa