Hội thảo Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và triển vọng cuối năm 2023 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức GIZ, Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh tổ chức sáng 10/7 cho biết, diễn biến kinh tế thế giới trong 6 tháng đầu năm 2023 có khá nhiều gam màu khác nhau.
Trong đó, có những khó khăn đã được dự báo từ trước như xung đột Nga-Ucraina kéo dài, xu hướng thắt chặt tiền tệ ở nhiều nền kinh tế lớn, biến đổi khí hậu phức tạp hơn…
Ngược lại cũng có một số chuyển biến khả quan hơn như Liên minh Châu Âu đã bước đầu bảo đảm được an ninh năng lượng; giá dầu mỏ và khí tự nhiên giảm đáng kể; tình trạng chuỗi cung ứng đã cải thiện nhanh chóng, chỉ số căng thẳng chuỗi cung ứng toàn cầu (GSCPI) đã giảm xuống mức kỷ lục, thậm chí thấp hơn mức trước đại dịch.
Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có sự cải thiện trong quý II/2023 so với quý I/2023. Tuy nhiên, so sánh với cùng kỳ các năm 2011-2022, tốc độ tăng trưởng sáu tháng đầu năm 2023 chỉ cao hơn tốc độ tăng trưởng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020. Kết quả tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm cũng thấp hơn so với kịch bản tăng trưởng đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và còn khoảng cách nhất định so với mục tiêu tăng trưởng đề ra cho cả năm.
Công tác điều hành phát huy tác động tích cực
Một trong những điểm sáng nổi bật trong bức tranh tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 chính là khu vực dịch vụ. Cụ thể, nhóm ngành dịch vụ ghi nhận tốc độ tăng trưởng 6,56% trong quý I; 6,11% trong quý II và 6,33% trong 6 tháng đầu năm. Sự phục hồi của khu vực dịch vụ có sự đóng góp quan trọng của nhiều nỗ lực thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ giữa tháng 3/2022 khi dịch COVID-19 được kiểm soát, và cùng với đó là chuỗi các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới bạn bè thế giới. Nhu cầu nội địa nhờ vậy tăng mạnh, cùng với đó lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng đáng kể.
Báo cáo cũng nhận định, công tác điều hành chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm có nhiều điểm tích cực.
Thứ nhất, công tác quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội được triển khai đồng bộ.
Thứ hai, khung khổ chính sách hướng tới thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội đã được hoàn thiện và đi vào thực hiện, có theo dõi, đánh giá thường xuyên.
Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, gắn với tham vấn và đồng thuận cao của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Theo đó, Việt Nam đã duy trì được dư địa chính sách kinh tế vĩ mô, và phần nào củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, công tác điều hành tiếp tục duy trì sự bài bản, gắn với việc cập nhật và đánh giá các kịch bản tăng trưởng, lưu tâm và cải thiện hiệu quả của công tác dự báo. Đồng thời, việc phân công chủ trì thực hiện nhiệm vụ (cho các lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương) đã được thực hiện hiệu quả hơn, qua đó bảo đảm hiệu quả.
Thứ năm, Việt Nam tiếp tục tư duy tích cực về cải cách môi trường kinh doanh và tạo không gian cho các mô hình kinh tế mới.
TS.Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện CIEM nhận định: Công tác điều hành của Chính phủ đã phát huy tác động tích cực hướng tới giảm thiểu các tác động bất lợi từ bên ngoài. Nổi bật nhất là việc chúng ta đã giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và bảo đảm an sinh xã hội. Không gian kinh tế cũng có điều kiện mở rộng, với việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo rà soát, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất-kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh. Chính phủ cũng đã và đang cân nhắc tích cực hơn cơ chế thử nghiệm cho một số ngành, lĩnh vực; cơ chế đặc thù cho một số vùng, địa phương như trường hợp của Thành phố Hồ Chí Minh.
“Quan trọng hơn, kinh tế Việt Nam bước đầu đã có những nỗ lực “chuyển đổi kép”, kết hợp giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh nhằm tạo động lực mới cho phục hồi kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng”, TS.Minh cho biết.
Bên cạnh các kết quả đạt được, Nhóm thực hiện Báo cáo "Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và triển vọng cả năm 2023” cho rằng, nền kinh tế vẫn cần tiếp tục xử lý các vấn đề như: một số văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế về tính rõ ràng, chồng chéo và tính khả thi, dẫn đến việc nhiều bộ ngành và địa phương phải tổ chức xin ý kiến, hướng dẫn và/hoặc gây thêm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp; chưa tạo được cách tiếp cận và động lực mới cho cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh; chưa có chương trình đủ mới, đủ trọng tâm để cải thiện năng suất lao động quốc gia nói chung và năng suất lao động ở các ngành nghề và khu vực công nói riêng...
Kịch bản nào cho tăng trưởng kinh tế cuối năm?
Trên cơ sở bối cảnh kinh tế thế giới và chính sách điều hành kinh tế trong nước, Báo cáo cập nhật dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 theo 3 kịch bản.
Kịch bản 1 giả thiết các yếu tố kinh tế thế giới tiếp tục duy trì phù hợp với đánh giá của các tổ chức quốc tế, và Việt Nam duy trì nỗ lực chính sách tương tự như nửa cuối các năm 2021-2022. Theo đó, tăng trưởng GDP dự báo đạt 5,34% trong năm 2023. Xuất khẩu cả năm 2023 giảm 5,64%. Chỉ số CPI bình quân cả năm 2023 tăng 3,43%. Cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 9,1 tỷ USD.
Kịch bản 2 giữ nguyên hầu hết các giả thiết trong Kịch bản 1 liên quan đến yếu tố kinh tế thế giới, song có một số điều chỉnh về nới lỏng tiền tệ và tài khóa tích cực hơn ở Việt Nam. Theo đó, tăng trưởng GDP dự báo ở mức 5,72% trong năm 2023. Xuất khẩu cả năm 2023 giảm 3,66%. Chỉ số CPI bình quân cả năm 2023 tăng 3,87%. Cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 10,3 tỷ USD.
Kịch bản 3 giả thiết bối cảnh kinh tế thế giới có một số chuyển biến tích cực hơn (tăng trưởng phục hồi, gián đoạn chuỗi cung ứng đã giảm đáng kể, lạm phát ở Mỹ giảm, thời tiết thuận lợi hơn,…) và sự quyết liệt trong cải cách và điều hành ở Việt Nam, qua đó giúp đạt kết quả tối đa về giải ngân/hấp thụ đầu tư công và tín dụng, cải thiện môi trường kinh doanh và năng suất lao động, thúc đẩy và thực hiện hoạt động đầu tư theo hướng hiệu quả hơn. Theo đó, tăng trưởng GDP dự báo ở mức 6,46% trong năm 2023. Xuất khẩu cả năm 2023 giảm 2,17%. Chỉ số CPI bình quân cả năm 2023 tăng 4,39%. Cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 6,8 tỷ USD.
Đại diện Nhóm thực hiện Báo cáo, ThS.Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp - Viện CIEM cho rằng, triển vọng kinh tế Việt Nam trong các tháng cuối năm 2023 có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Đó là khả năng tiếp tục và mức độ thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế chủ chốt; các nền kinh tế chủ chốt sẽ gia tăng cạnh tranh chiến lược (cả về địa chính trị, kinh tế, công nghệ), song xu hướng cân bằng hợp tác theo hướng tránh “chọn bên” sẽ phổ biến hơn ở các nền kinh tế có quy mô nhỏ và trung bình; dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục có sự chuyển dịch trong bối cảnh các nước đang chuẩn bị thực thi Cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu.
Bên cạnh đó là tiến độ thực hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội; năng lực của Việt Nam trong việc thực hiện hài hòa, song hành cả chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Bình luận thêm xung quanh những nhận định và khuyến nghị của Báo cáo do Viện CIEM thực hiện, các chuyên gia dự báo triển vọng kinh tế những tháng cuối năm vẫn rất khó khăn, trong đó có sự khó khăn trong thương mại dẫn tới ảnh hưởng đến sản xuất công nghiệp, đơn hàng, việc làm...
Theo TS.Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, để giải quyết những khó khăn, bên cạnh công tác điều hành chính sách quyết liệt, thúc đẩy đàm phán và kí kết thêm các hiệp định thương mại tự do với các đối tác… cần tiếp tục chú trọng vào tiêu dùng trong nước - “bệ đỡ” cho tăng trưởng hiện nay, bao gồm: bán lẻ, vận chuyển hành khách, logistics, viễn thông, đặc biệt là du lịch lữ hành, dịch vụ lưu trú.
Bên cạnh đó đầu tư nên tập trung vào một số dự án cụ thể, xử lý tốt các vấn đề của lĩnh vực bất động sản gắn với thị trường tài chính - tiền tệ và thực hiện hiệu quả cơ chế đặc thù cho TP.Hồ Chí Minh gắn với những kinh nghiệm, bài học rút ra.
Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ lưỡng mối quan hệ giữa suy giảm thương mại xuất nhập khẩu với tình hình đầu tư vào Việt Nam, nhất là đối với các mặt hàng thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất.
Trong khi đó, TS.Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam cho rằng, hiện có nhiều thách thức đặt ra với những mục tiêu trung hạn và dài hạn của nền kinh tế Việt Nam.
Theo TS.Bình, trong 6 tháng đầu năm, năng lực sản xuất của nền kinh tế được duy trì trên nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới và quay trở lại hoạt động tăng trở lại, tổng đầu tư toàn xã hội gia tăng, đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là năng lực cơ sở hạ tầng tiếp tục được cải thiện.
“Ước tính mỗi ngày có thêm 1 km đường cao tốc được hoàn thiện, đây là kỷ lục chúng ta chưa bao giờ đạt được từ trước đến nay và với nỗ lực hiện nay dự kiến tốc độ này sẽ duy trì trong thời gian tới”, TS.Bình bày tỏ và cho rằng, điều này cho thấy năng lực sản xuất vẫn được đẩy mạnh, năng lực của các doanh nghiệp vẫn được duy trì, năng lực cơ sở hạ tầng được cải thiện hàng ngày, hàng quý. Bên cạnh đó, hệ thống cảng biển, cảng đường sông, cơ sở hạ tầng viễn thông… cũng được cải thiện liên tục.
Tuy nhiên, theo TS.Bình, năng lực sản xuất này chưa được chuyển hóa để trở thành kết quả tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng đã được cải thiện trong quý II so với quý I nhưng chưa được như chúng ta mong muốn...
Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2023 đã giúp Việt Nam có những hình dung rõ nét hơn về bối cảnh và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nửa cuối năm 2023 cũng như các năm tiếp theo. Thực tiễn các năm 2020-2022 cho thấy, không ít lần Việt Nam gặp phải suy giảm tăng trưởng trong 1-2 quý đầu năm, nhưng sau đó đã phục hồi mạnh mẽ trong các tháng cuối năm.
Với tâm thế ấy, bối cảnh khó khăn trong các tháng đầu năm 2023 cũng chính là “sức ép tích cực” để Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương quyết liệt hơn trong điều hành và cải cách để thúc đẩy nền kinh tế trong thời gian tới.