3. Châu Á vẫn là động lực ổn định và tăng trưởng toàn cầu
Các nền kinh tế châu Á (chiếm khoảng 1/3 diện tích đất liền toàn thế giới, dân số chiếm khoảng 3/5 tổng dân số toàn thế giới) vẫn đóng góp tích cực vào sự hồi phục và ổn định toàn cầu với sự tăng trưởng đầy ấn tượng của Trung Quốc trong quý 2/2010 đã lần đầu tiên vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới về GDP (1.330 tỷ USD so với 1.280 tỷ USD). Tháng 11/2010, tổ chức kinh tế uy tín Conference Board cho rằng Trung Quốc sẽ vượt Mỹ ngay trong năm 2012 nếu xét về sức mua tương đương (PPP), và về GDP thực, sẽ mất hơn một thập kỷ nữa để vượt Mỹ. Nhận định này trùng khớp với báo cáo mới nhất của Ngân hàng Standard Chartered, cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường lớn nhất toàn cầu vào năm 2020. Trên thực tế, nhóm kinh tế mới nổi là Trung Quốc và Ấn Độ đã thay thế Nhật Bản trở thành động lực phát triển kinh tế châu Á. G20 sẽ bao gồm nhóm 10 nước kinh tế mới nổi được coi là “Diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế quan trọng nhất” và “Nhóm điều chỉnh mới về kinh tế thế giới”, đánh dấu ba khu vực chủ soái về kinh tế thế giới là Mỹ, Nhật, châu Âu đã không còn độc quyền trong giải quyết vấn đề lớn mang tính toàn cầu, đánh dấu tầm ảnh hưởng ngày càng lớn của nhóm kinh tế lớn mới nổi, nâng cao địa vị và mở rộng tiếng nói trong hệ thống kinh tế toàn cầu, đánh dấu sự biến đổi mới của cục diện kinh tế thế giới. Nhật Bản có sự cải thiện đầy ấn tượng về xuất khẩu, với kim ngạch tháng 11/2010 của nước này tăng 9,1% so với cùng kỳ, cao hơn so với mức 7,8% trong tháng 10/2010. Theo dự báo, GDP của Nhật năm 2011 có thể tăng 1,5%, thấp hơn một nửa so với mức dự báo cho năm 2010 là 3,1%. Đồng Yên cũng leo thang lên mức cao nhất trong 15 năm qua so với USD. Vì vậy, nhằm giảm tỷ giá đồng yên/USD, lần đầu tiên trong hơn 6 năm qua, ngày 15/9/2010, Nhật Bản đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ, với việc bán ra khoảng 1.000 tỷ yên -trị giá khoảng 20 tỷ USD, và ngày 5/10/2010, lần đầu tiên kể từ tháng 12/2008, Ngân hàng trung ương Nhật Bản hạ lãi suất cơ bản từ mức 0,1% xuống 0-0,1%...
Tuy nhiên, những đám mây mờ đã dần đậm nét trên bầu trời kinh tế Trung Quốc, khi kinh tế Trung Quốc quý 3/2010 tăng trưởng 9,6%; mức tăng thấp nhất trong 1 năm, so với con số 11,9% của quý 1/2010. Lạm phát tháng 9/2010 tăng mạnh nhất trong 23 tháng. Trái phiếu Trung Quốc hiện đang bị mất điểm nhất của châu Á lần thứ hai trong 4 năm nay (Lợi suất trái phiếu chính phủ của Trung Quốc ở mức 1,7%, thấp nhất trong các chỉ số quan sát 10 quốc gia lớn nhất châu Á, ngoại trừ Nhật Bản, của HSBC Holdings Plc), phản ánh lo ngại rằng ngân hàng trung ương Trung Quốc sẽ phải quyết liệt hơn trong việc nâng lãi suất nhằm kìm hãm lạm phát. Trên thực tế, do lo lắng về khả năng bong bóng tài sản cũng như rủi ro lạm phát, ngày 19/10/2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã tiến hành tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay, hạn chế tín dụng, ngăn đầu cơ trên thị trường bất động sản và yêu cầu thực hiện chặt chẽ các mục tiêu bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng. Hãng định mức tín nhiệm Fitch Ratings ước tính các ngân hàng thương mại Trung Quốc đã cấp vốn tín dụng mới trong năm 2010 lên tới 10,5 nghìn tỷ Nhân dân tệ, so với mức trần mà Chính phủ nước này đặt là 7,5 nghìn tỷ Nhân dân tệ, tương đương khoảng 1.126 tỷ USD, và so với mức 11 nghìn tỷ Nhân dân tệ vốn vay mới được cấp năm 2009. Những con số trên một phần lý giải tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc trong năm 2010, đưa quốc gia này vào vị trí đầu tàu cho đà phục hồi của kinh tế toàn cầu.
Với trên 2600 tỷ USD dự trữ ngoại tệ, Trung Quốc dư thừa phương tiện để tiếp tục tăng cường kế hoạch an ninh năng lượng của mình trên quy mô toàn cầu, với liên tiếp các vụ mua lại các công ty năng lượng lớn trên thế giới: Tháng 12/2010, Trung Quốc trả 989 triệu USD để mua 7 công ty điện của Brazil. Theo đó, State Grid sẽ giành quyền vận hành lưới điện của khu vực đông nam Brazil trong 30 năm và có thể được gia hạn 20 năm khi hết hạn. Trước đó, hồi tháng 3/2010, Trung Quốc đã mua 50% cổ phần của hãng năng lượng Bridas ở Argentina và bỏ ra 7,06 tỉ USD để mua 60% cổ phần của Pan American Energy. Trung Quốc ngày càng nổi lên như một nhân tố nặng ký khiến các vụ mua bán và sáp nhập (M&A) trong ngành năng lượng tăng 40% trong năm 2010, đạt con số 482 tỷ USD, đưa tổng giá trị (M&A) trên phạm vi toàn cầu trong năm 2010 lên tới 2,25 nghìn tỷ USD, tăng 19%, lần đầu tiên kể từ năm 2007. Đồng thời, Trung Quốc nâng giá xăng dầu thêm lần lượt 3,8% đến 4% trong 2 tháng liên tiếp, do giá dầu thế giới tăng, bấp chấp những lo lắng về lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2010 của nước này tăng 5,1%, cao nhất từ tháng 7/2008).
4. Xu hướng thắt chặt chi tiêu của chính phủ các nước châu Âu
Chính sách thắt chặt chi tiêu công của châu Âu diễn ra như một hiện tượng khu vực năm 2010 trong bối cảnh hội tụ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Tham gia vào khu vực đồng euro, các nước thành viên đã tự tước bỏ khả năng sử dụng các công cụ lãi suất và tỷ giá như một động lực kích thích tăng trưởng kinh tế. Họ chỉ còn sự lựa chọn duy nhất là tăng chi tiêu công trong bối cảnh lan tỏa toàn cầu của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính từ Mỹ những năm 2007-2008. Sự thái quá và lạm dụng chi tiêu công trong các nước vốn có chính sách an sinh xã hội cao này đã trực tiếp dẫn đến gánh nặng nợ công và thâm hụt NSNN, thậm chí đã trở thành cơn dịch đe dọa sự an toàn và lành mạnh của khu vực kinh tế được nhất thể hóa cao nhất thế giới này. Vì vậy, cắt giảm chi tiêu công nhằm khống chế nợ công và thâm hụt NSNN đã trở thành lựa chọn số 1 và bắt buộc của các nước trong khối EU nhằm cứu vãn sự ổn định và uy tín của cộng đồng khối, cũng như tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, từ đó giúp phục hồi kinh tế khu vực.
Sau khi chính phủ Hy Lạp công bố mức thâm hụt ngân sách của nước này là 12,7% GDP (trong khi mức cho phép của eurozone đối với mỗi nước thành viên là thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP và tổng nợ công không quá 60% GDP) và ngày 23/4/2010 Hy Lạp chính thức cầu cứu EU và IMF, đến ngày 2/5/2010, Hy Lạp cho biết đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu 110 tỷ euro, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới. Đây là nước đầu tiên tại khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Ngày 10/5/2010, một kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro, tương đương khoảng gần 1.000 tỷ USD để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp được tung ra, bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc eurozone, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu Âu và IMF đóng góp 250 tỷ euro. Tiếp đó, 16 nước thành viên eurozone đã đua nhau đưa ra các kế hoạch thắt chặt chi tiêu, cụ thể: Ngày 18/5/2010 Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được coi như nguyên nhân dẫn dến khủng hoảng nợ, công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS); tiếp đó, từ ngày 8/6/2010 công bố thực hiện một loạt chính sách nhằm tiết kiệm khoảng 80 tỷ USD từ nay đến năm 2014. Pháp cũng tuyên bố xóa bỏ một số chính sách miễn giảm thuế, ngừng các chương trình chi tiêu tốn kém kể từ năm 2011 để đưa thâm hụt ngân sách nhà nước từ 8% trong năm 2010 xuống còn 3% vào năm 2013. Ngày 27/5/2010, Tây Ban Nha tuyên bố tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD ngân sách (trước đó, ngày 29/1/2010, Tây Ban Nha đã công bố kế hoạch trong 3 năm tới tiết kiệm 50 tỷ euro, tương đương 70 tỷ USD, tức 4% GDP, giảm 4% lương lao động trong lĩnh vực công). Ngày 25/5/2010, Italia tuyên bố tiết kiệm 24 tỷ euro để đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP (từ mức 5,3% của năm 2009). Bồ Đào Nha cũng cam kết giảm mức thâm hụt NSNN xuống còn một nửa vào năm 2011 so với năm tài khoá 2009. Ngay cả Anh, một nước ngoài khu vực đồng euro, cũng công bố kế hoạch tiết kiệm hơn 7 tỷ euro từ ngân sách của các bộ như Y tế, Quốc phòng…
Chính sách thắt chặt chi tiêu chính phủ của các nước đang và sẽ có tác động 2 mặt của đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội: Một mặt, về nguyên tắc, chính sách thắt chặt chi tiêu công, thể hiện ở các nội dung như: giảm hoặc trì hoãn trả lương và tiền thưởng, trợ cấp hưu trí và các chế độ phúc lợi xã hội khác; bãi bỏ các khoản miễn, giảm thuế và tăng mức thu thuế đối với một số loại thuế và lĩnh vực, sản phẩm; trì hoãn hay cắt giảm các khoản đầu tư công và chi phí mua sắm công, kể cả chi phí quốc phòng; thậm chí nới lỏng các điều kiện tuyển dụng và sa thải lao động…sẽ trực tiếp và gián tiếp giúp giảm bớt các khoản chi từ NSNN, cải thiện thâm hụt NSNN, cũng như tình trạng nợ công khác, tăng niềm tin và khích lệ đầu tư xã hội, từ đó giúp khôi phục và ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế cho thấy, việc điều chỉnh ngân sách dựa vào cắt giảm các khoản chi cho phúc lợi xã hội hoặc hóa đơn tiền lương của chính phủ sẽ tạo ra lợi ích về lâu dài, kéo giảm mức nợ công xuống thấp hơn và kích thích tăng trưởng GDP nhanh hơn so với việc giảm chi ngân sách dựa trên việc tăng thuế và cắt giảm đầu tư công. Vì vậy, hầu hết các nước châu Âu đều chọn kế hoạch giảm tiền lương khu vực công và phúc lợi, là các hình thức cắt giảm ngân sách ít gây tổn hại cho quá trình phục hồi nền kinh tế. Việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu khu vực công và phụ cấp đã được tiến hành ở Ireland, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Italy dự định giảm lương khu vực công trong ba năm. Đức và Hy Lạp sẽ giảm chi lương hưu. Bồ Đào Nha giảm trợ cấp thất nghiệp. Về triển vọng, với một đồng euro đang sụt giá, dao động ở khoảng 1,24 USD đổi lấy 1 euro cũng có thể là một đòn bẩy giúp xuất khẩu của khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu tăng lên, tức cho phép eurozone phần nào lấy lại cân bằng trước những thiệt thòi do chính sách cắt giảm chi tiêu gây nên. Mặt khác, làn sóng cắt giảm chi tiêu công lại làm dấy lên một mối lo mới, vì có thể làm gia tăng tình trạng thất nghiệp và mất ổn định xã hội; làm tiêu giảm động lực tăng trưởng kinh tế từ khu vực công, khi mà sự hồi phục kinh tế vĩ mô trên phạm vi quốc gia hay toàn cầu, cũng như năng lực tài chính vi mô của nhiều doanh nghiệp, và cả sự hồi phục sức mua thị trường xã hội là chưa thực chắc chắn, tức sẽ đẩy các nền kinh tế rơi trở lại vùng suy thoái. Viễn cảnh thất nghiệp và tăng thuế suất nhằm giảm nợ công có thể sẽ làm tổn hại tới tình hình tài chính cá nhân, khiến hạn chế chi dùng cá nhân, tức đồng nghĩa với trì trệ sức mua và các thị trường có liên quan. Trong bối cảnh kinh tế khu vực đồng euro đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp tăng hơn 10%, trong đó Tây Ban Nha dẫn đầu, với 19%, việc siết chặt các khoản chi tiêu công nhằm giảm bớt nợ công, thu hẹp thâm hụt ngân sách nhằm lấy lại uy tín trong mắt các nhà đầu tư, tô điểm lại hình ảnh của đồng tiền chung châu Âu, rất có thể đi ngược lại mục đích kích thích kinh tế phát triển, thậm chí làm căng thẳng thêm tình trạng khủng hoảng ngân sách cấp bách do thu thuế bị sụt giảm và tiền trả cho người thất nghiệp tăng lên...tạo ra vòng luẩn quẩn định mệnh với nguy cơ suy thoái kép, cả do từ các nguyên nhân khó khăn bên ngoài, lẫn do các nguyên nhân bên trong tự thân chính sách thắt chặt chi tiêu của chính phủ gây ra. Điển hình là Ireland, việc hạn chế chi tiêu đã dẫn đến giảm sản lượng đầu ra, tăng thất nghiệp và tăng lãi suất trái phiếu thay vì đầu tư mới. Nếu Anh, Đức hoặc những nước khác cũng làm như vậy thì chính sách này sẽ có ảnh hưởng hệ thống đến Châu Âu và toàn thế giới. Ở Anh, Chương trình giảm chi tiêu trị giá 80 tỷ bảng (là chương trình cắt giảm thâm hụt ngân sách mạnh tay nhất trong 60 năm qua) để giảm thâm hụt ngân sách 156 tỷ bảng và khối nợ lớn của nước này, sẽ khiến khoảng nửa triệu lao động trong lĩnh vực công tại Anh có thể mất việc.Trước đó, lương của phần lớn người lao động trong cơ quan của chính phủ đã bị “đóng băng” trong 2 năm (theo chương trình thắt chặt ngân sách công bố tháng 6/2010). Từ năm 2013, khoảng 1,2 triệu gia đình Anh sẽ mất trợ cấp nuôi con, ngoài ra, phúc lợi của hàng chục nghìn người Anh khác bị cắt giảm. Nếu chính phủ Anh quyết định ngừng trợ cấp nhiên liệu mùa đông, hàng triệu người về hưu tại Anh sẽ mất trợ cấp này. Hiện khoảng 12 triệu người Anh nhận trợ cấp nhiên liệu mùa đông. Việc áp dụng chính sách "thắt lưng buộc bụng", giảm phúc lợi xã hội, thắt chặt chi tiêu, giảm lương và sa thải lao động…khiến người lao động bất bình và làn sóng biểu tình và bãi công lớn nhất trong hơn 40 năm qua đang lan rộng toàn châu Âu, từ Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp, Italy, CH Séc, Ðức đến Anh và Ireland. Khẩu hiệu đình công là đặt con người và nhu cầu thiết yếu lên trên thị trường và lợi nhuận, không được trút gánh nặng khủng hoảng kinh tế lên lưng người lao động một cách bất công, trong khi họ đang mất dần các quyền lợi, các khoản thu nhập và lương hưu; không được bắt người lao động trả giá cho khủng hoảng và các chính sách thời hậu khủng hoảng mà họ là nạn nhân. Cần nhấn mạnh rằng, sự bất bình của người dân có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín chính trị của đảng cầm quyền. Trong cuộc bầu cử vào tháng 5/2010, do sự bất bình của công chúng về hướng giải quyết nợ của nước này, không đảng nào tại Anh giành được thế đa số. Chính Thủ tướng Ðức A.Merkel cũng thừa nhận rằng, những năm tới sẽ là thời kỳ khó khăn đối với khu vực châu Âu…
5. Mỹ không mặn mà với chính sách thắt chặt chi tiêu công, nhưng tăng cường giám sát tài chính thông qua Đạo luật Dodd-Frank
Mặc dầu về mục tiêu dài hạn, cả Mỹ và châu Âu đều cùng hướng đến việc cải thiện các mất cân đối vĩ mô; nhưng hiện tại, trong khi các nước EU đang thực hiện chính sách cố gắng hạn chế chi tiêu theo cách riêng để thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ và trì trệ kinh tế, thì Mỹ lại đứng ngoài cuộc, việc cắt giảm ngân sách và chi tiêu công vào lúc này là không thể trở thành ưu tiên của Mỹ, nếu như không nói việc giảm chi tiêu cũng như tăng thuế tại thời điểm này là phản tác dụng với Mỹ. Nói cách khác, về trung hạn, Mỹ sẽ tiếp tục sử dụng cả chính sách tài chính, lẫn chính sách tiền tệ nới lỏng để tiếp tục hỗ trợ cho đến khi nền kinh tế phục hồi bền vững và thị trường lao động sáng sủa hơn… Điều này có nguyên nhân từ bối cảnh lịch sử cụ thể của Chính phủ Obama, kinh nghiệm quá khứ, cũng như vị thế của Mỹ trong thế giới hiện nay:
Trước hết, cần thấy rằng chính quyền Obama kế thừa di sản “hậu Buss’-người tiền nhiệm của Obama không có gì sáng sủa về kinh tế, với những mất cân đối vĩ mô nặng nề cả về thương mại, ngân sách và nợ công (Mỹ là một trong những con nợ lớn nhất thế giới, với khoản nợ trị giá 13 nghìn tỷ USD và thâm hụt ngân sách hiện nay bằng 11% GDP cả nước, và dự kiến thâm hụt ngân sách sẽ đạt mức kỷ lục 1,56 nghìn tỷ trong năm tài chính 2011).
Trong khi đó, khu vực ngân hàng của Mỹ bị tổn thất nặng nề với hàng trăm ngân hàng lớn nhỏ bị phá sản, lãi suất ở những nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, và các nước Châu Âu đều đang ở mức không thể thấp hơn được nữa, ở mức 0 đến 0,25%, nhưng tín dụng ở Mỹ vẫn tăng trưởng âm 5% trong năm 2009. Tiêu dùng cá nhân ở Mỹ, chiếm đến 70% của nền kinh tế nước này, tăng trưởng rất thấp. Người dân Mỹ đang áp dụng chính sách tiết kiệm hơn kể từ đầu cuộc khủng hoảng tài chính đến nay. Mỹ cần duy trì tăng trưởng cao để giảm tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức gần 10% trong cả nước. Theo tính toán, GDP của Mỹ phải tăng 5% mới giúp tỷ lệ thất nghiệp giảm 1 điểm phần trăm (tăng trưởng GDP trung bình trong 6 thập kỷ qua tại Mỹ là 3,4%). Trong khi đó tốc độ phục hồi kinh tế Mỹ đã bị chậm lại trong quý 2/2010, khi GDP chỉ tăng 2,4%, so với mức tăng 3,7% trong quý 1; chi tiêu tiêu dùng chỉ tăng 1,6% trong quý 2/2010 và cũng là mức tăng thấp nhất trong vòng 1 năm qua. Mức tăng trưởng quý 3/2010 với con số 2,6% thấp hơn so với dự báo 2,8% của các chuyên gia kinh tế. Đây cũng là lý do tại sao Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) quyết định bơm thêm tiền vào nền kinh tế, gia hạn chương trình mua tài sản từ tháng 1/2011 đến tháng 8/2011. Một số chuyên gia dự rằng rủi ro tiếp theo đối với kinh tế Mỹ chính là sự sụp đổ của chính quyền các bang, với số lượng các vụ phá sản liên bang có thể từ 50 đến 100 vụ và khiến thiệt hại đối với hệ thống tài chính, hiện đã ở mức hàng trăm tỷ USD sẽ tiếp tục tăng cao hơn.
Nói cách khác, Mỹ đang bị mất động lực tăng trưởng từ khu vực tư nhân, nên cần tìm động lực tăng trưởng từ chi tiêu công như một cứu cánh tự thân và là lời giải đơn giản duy nhất cho những bài toán phức tạp mà Chính phủ Obama phải đương đầu giải quyết trong những năm tháng đầu nhiệm kỳ.
Ngoài ra, Mỹ có vị thế đặc biệt trong thế giới đương đại, là nền kinh tế lớn nhất, sở hữu đồng USD hiện vẫn là đồng tiền mạnh nhất và là đồng tiền dự trữ thế giới, và trái phiếu chính phủ Mỹ vấn được công ty đánh giá tín nhiệm hàng đầu thế giới Moody xếp hạng AAA, mức tín nhiệm cao nhất thế giới; giá tiêu dùng của Mỹ (không tính năng lượng và thực phẩm), chỉ tăng 0,9% trong 12 tháng tính đến hết tháng 6/2010. Những lợi thế này cho phép Mỹ mạnh tay chi tiêu công mà không sợ thiếu tiền và vỡ nợ quốc gia.
Hơn nữa, Mỹ đã từng xử lý thành công cuộc Đại khủng hoảng-suy thoái kinh tế những năm 30 của thế kỷ trước thông qua chính sách kích cầu từ chi tiêu và đầu tư công theo học thuyết kinh tế của Keneys. “Bổn cũ soạn lại”, bài thuốc kích cầu từ chi tiêu công vì thế được Mỹ tái sử dụng với sự tự tin của người trong cuộc dạn dầy kinh nghiệm, bất chấp lập trường của Mỹ đang khiến nhiều nhà kinh tế càng ngày càng lo ngại, đặc biệt khi Mỹ “nuôi” lạm phát tiềm năng bằng cách phát hành rất nhiều nợ kho bạc và duy trì lãi suất thấp.
Trên thực tế, trong quý 1/2010, Mỹ đã thông qua dự luật nâng mức nợ trần của chính phủ lên 14.300 tỷ USD (là mức trần nợ công cao nhất từ trước tới nay), và dự toán ngân sách cho năm 2011 lên tới 3.830 tỷ USD, tăng 3 % so với năm 2010 (năm 2009 là 3.510 tỷ USD, năm 2010 là 3.720 tỷ USD, tăng 5,7 % so với năm 2009). Trong báo cáo trình Quốc hội, con số bội chi ngân sách của Mỹ trong năm 2010 lên tới mức kỷ lục 1.560 tỷ USD. Tổng thống Obama từng nhấn mạnh, mức bội chi ngân sách kỷ lục của Mỹ có thể sẽ đe doạ đến sự phục hồi của nền kinh tế, do đó cần phải giám sát chặt chẽ. Trong các khoản chi tiêu của chính phủ Mỹ, cứ 3 đôla Mỹ thì có 1 đôla Mỹ là tiền vay nợ nước ngoài. Nợ nước ngoài của Chính phủ cao làm suy yếu địa vị của Mỹ. Nếu năng lực vay mượn nước ngoài của Mỹ giảm thì cũng là dấu hiệu suy giảm quyền lực của Mỹ. Theo Văn phòng Ngân sách của Quốc hội Mỹ (CBO), thâm hụt ngân sách liên bang của Mỹ dự kiến sẽ thu hẹp xuống còn 1.350 tỷ USD trong tài khóa 2010 (chiếm 9,2% GDP) giảm nhẹ so với con số kỷ lục 1.414 tỷ USD (tương đương 9,9% GDP) của tài khóa 2009 - là mức lớn nhất tính theo GDP kể từ sau Thế chiến thứ hai. CBO cũng dự đoán thâm hụt ngân sách liên bang sẽ giảm dần xuống 980 tỷ USD vào tài khóa 2011 và 480 tỷ USD tài khoá năm 2015, tức chiếm 3% GDP vào giữa thập kỷ này. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng ngân sách liên bang sẽ thâm hụt lớn hơn mức dự đoán của CBO vì Quốc hội đang xem xét dự luật mới về tạo thêm việc làm và chính quyền Obama cũng đang đề nghị tăng chi phí chiến tranh. CBO đánh giá rằng triển vọng ngân sách của Mỹ sau năm nay sẽ rất "ảm đạm", với khoản thâm hụt ngân sách trung bình hàng năm trong giai đoạn 2010-2020 sẽ vào khoảng 600 tỷ USD. Do đó, thâm hụt ngân sách có thể làm tăng gấp đôi nợ của Chính phủ Mỹ lên 15.000 tỷ USD, chiếm 67% GDP vào cuối năm 2020 ( cuối năm 2009, nợ công của Mỹ đã ở mức 7.500 tỷ USD, chiếm 53% GDP). CBO cho rằng với mức tăng nợ khổng lồ như vậy, cùng với lãi suất tăng lên khi kinh tế phục hồi mạnh hơn, tiền trả lãi suất cho những khoản nợ sẽ tăng vọt. Cần nhấn mạnh rằng, mặc dù vẫn đặt trọng tâm tiếp tục chính sách nới lỏng chi tiêu công trong thời gian trung hạn, nhưng Tổng thống Barack Obama ngày 27/1/2010 cũng đã lên tiếng kêu gọi thông qua kế hoạch giảm chi tiêu trong 3 năm nhằm tiết kiệm khoản ngân sách 250 tỷ USD trong vòng một thập kỷ tới. Ngoài ra, Chính phủ Obama cũng đang tìm cách cải thiện hiệu quả những gói kích cầu, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng ở nước Mỹ, khi mà các ngân hàng- những đối tượng gây ra nhiều vấn đề nhất- lại nhận được quá nhiều tiền từ gói kích cầu. Về triển vọng, giới quan sát thị trường tin rằng, đồng USD sẽ giảm thêm với triển vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ đưa thêm các biện pháp nới lỏng tiền tệ trong thời gian tới. Tình hình còn trở nên phức tạp thêm khi giới chức trách Nhật Bản cho biết sẽ dùng mọi nỗ lực để làm đồng Yên Nhật giảm giá.
Ngày 21/7/2010, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ký thông qua chính thức Đạo luật Cải cách Tài Chính Phố Wall và Bảo vệ người tiêu dùng (Dodd-Frank Wall Street and Consumer Protection Act), gọi tắt là Luật Dodd - Frank như là thắng lợi lớn về lập pháp thứ hai của ông Obama liên tiếp trong năm 2010, sau việc thông qua Luật cải cách hệ thống bảo hiểm y tế vào 3/2010. Lý do ra đời Đạo luật Dodd-Frank bắt nguồn từ nhận thức lại của chính giới Mỹ về sự cần thiết phải đưa ra giải pháp dài hạn, mang tính tái cấu trúc và thay đổi tổng thể hệ thống tài chính Mỹ, nhằm ngăn chặn hữu hiệu và vững chắc các nguy cơ khủng hoảng tương tự trong tương lai. Đạo luật này là một phần của bước chuyển mang tính toàn cầu từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, theo đó Chính phủ sẽ can dự sâu hơn vào ngành tài chính.
Như tên gọi của mình, Đạo luật đã đề cập và điều chỉnh đến hầu hết các vấn đề trọng yếu của thị trường tài chính tại Mỹ, bao gồm cấu trúc hệ thống giám sát, mối quan hệ của các cơ quan giám sát, các trung gian tài chính, sản phẩm dịch vụ tài chính và bảo vệ người gửi tiền, người sử dụng dịch vụ tài chính…với những điểm mới đáng chú ý như: Thành lập Văn phòng bảo vệ tài chính tiêu dùng (CFPB) nhằm tăng cường bảo vệ người tiêu dung (tăng vĩnh viễn hạn mức bảo hiểm tiền gửi tối đa lên 250.000 USD đối với mỗi người gửi tiền so với mức cũ trước đây là 100.000 USD); Thành lập Hội đồng giám sát ổn định tài chính (FSOC) nhằm tăng cường giám sát và giải quyết vấn đề rủi ro hệ thống đối với khu vực tài chính-ngân hàng; Tăng cường quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng và lĩnh vực giám sát; Đảm bảo tính minh bạch và hạn chế rủi ro đối với các sản phẩm chứng khoán phái sinh; Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức tài chính-tín dụng đối với an toàn hệ thống; Đồng thời, đặt ra các điều khoản cho phép thực hiện phá sản với bất kỳ tổ chức tài chính-ngân hàng nào; Ngoài ra, Đạo luật này còn có các quy định liên quan đến hoạt động của các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, vấn đề lương thưởng của Ban lãnh đạo định chế tài chính, tăng cường năng lực của Ủy ban giao dịch chứng khoán và các cơ quan đảm bảo an toàn tài chính khác.
Đạo luật đề ra những cách thức mới để giám sát rủi ro trong hệ thống tài chính (quy định trong vài năm các ngân hàng lớn phải rút dần vốn ra khỏi các quỹ đầu cơ, quỹ tư nhân và chỉ nắm giữ tối đa 3% số cổ phiếu của các quỹ này), tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc đóng cửa các công ty tài chính lớn bị thua lỗ; đề ra những luật lệ mới cho việc kinh doanh các sản phẩm chứng khoán phái sinh phức tạp - đầu mối gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008; áp đặt những hạn chế mới lên các ngân hàng lớn nhất, người vay tiền phải chứng minh mình có thu nhập ổn định và đủ để thanh toán lãi và vốn vay hàng tháng, nói như Tổng thống Obama thì “Mục đích của chúng tôi không phải là trừng phạt các ngân hàng, mà để bảo vệ nền kinh tế và người dân Mỹ khỏi những rối loạn mà chúng ta đã chứng kiến trong mấy năm qua”.
Việc thực thi Đạo luật sẽ có tác động 2 chiều đến kinh tế Mỹ và thế giới, với kỳ vọng tác động tích cực sẽ vượt trội tác động tiêu cực. Tác động tích cực kỳ vọng lớn nhất của Đạo luật là sẽ chấm dứt tình trạng xẩy ra những vụ “mờ ám’’ đã đẩy hệ thống tài chính Hoa Kỳ vào tình trạng khủng hoảng năm 2008, làm rối loạn nền kinh tế Mỹ và gây thiệt hại cho người dân đóng thuế. Thời đại các doanh nghiệp “quá lớn đến mức không thể sụp đổ” (too big to fail) đã là dĩ vãng. Theo Tổng thống Obama, Đạo luật sẽ gia tăng trách nhiệm của các định chế tài chính, nhưng không làm tê liệt thị trường tự do, thậm chí không chỉ có lợi cho người tiêu dùng, mà còn có tác động tích cực đối với nền kinh tế và giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định khôn ngoan hơn, chấm dứt việc dùng tiền nộp thuế của người dân để tung ra các gói cứu trợ. Tuy nhiên, những người phản đối thì ca thán rằng Đạo luật mới gia tăng quyền hạn của Chính phủ đối với hoạt động của các công ty tài chính tư nhân, vi phạm nguyên tắc kinh doanh tự do vốn được sùng bái như một công cụ làm tăng thịnh vượng nền kinh tế Mỹ suốt mấy thập kỷ qua và sẽ khiến người tiêu dùng tốn kém, là một gánh nặng đối với các ngân hàng cỡ nhỏ và những doanh nghiệp dựa vào chúng, cản trở tăng trưởng việc làm, cũng như làm tăng nghĩa vụ tài chính, chi phí và hạn chế quyền lợi, trong đó có quyền tự do kinh doanh khó giới hạn và lợi nhuận của các tổ chức tài chính-ngân hàng Mỹ; Tổ chức người tiêu dùng cho rằng, Đạo luật này có thể bảo hộ người tiêu dùng tránh được các vụ lừa đảo khi vay tín dụng nhà ở và thẻ tín dụng v.v, song sẽ khiến việc xem xét các khoản vay tín dụng càng nghiêm khắc hơn, cũng có nghĩa là người dân gặp khó khăn nhiều hơn trong việc xin vay tín dụng, phạm vi lựa chọn bị giảm, nhưng giá thành thì lại tăng cao, đặc biệt là cộng đồng thu nhập thấp càng thiệt thòi hơn.
Đạo luật truyền đi các thông điệp cần thiết từ đó làm thay đổi nhận thức và tạo ra làn sóng mới việc hoàn thiện cơ sở luật pháp trong mỗi nước và quốc tế, cũng như thành lập thêm các định chế cần thiết, tăng cường các hoạt động và công cụ hữu hiệu nhằm hỗ trợ giám sát tài chính Nhà nước và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động của các thị trường tài chính quốc gia và quốc tế; từ đó góp phần giữ gìn sự ổn định chung các hoạt động tài chính quốc gia và quốc tế trong tương lai; Ông Lawrence Summers, giám đốc Ủy ban Kinh tế Mỹ, cho rằng: “Chúng ta cần những đạo luật tài chính nhằm giúp thế giới này an toàn hơn trước sự dốt nát và tính tham lam, thay vì trông chờ vào việc thay đổi những điều đó”. Mặt khác, Đạo luật có thể kéo theo sự thu hẹp nhất định về quy mô các hoạt động đầu tư và tín dụng, nhất là đầu tư mang tính đầu cơ và mạo hiểm, từ đó làm thu hẹp quy mô và cường độ nóng của các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Tác động của Đạo luật Dodd-Frank còn tùy thuộc vào sự cụ thể hóa và thời hiệu thi hành những quy định mà nó đưa ra, trong khi còn nhiều quy định chưa rõ ràng và rất nhiều các biện pháp cải cách ngân hàng mới được đưa ra phải mất nhiều năm nữa mới được tiến hành. Đến tận 2013, các ngân hàng mới phải đáp ứng các yêu cầu mới về vốn. Điều khoản các công ty phải giảm bớt tỷ lệ nắm giữ của mình trong các quỹ phòng hộ và các quỹ cổ phần riêng phải mất tới 12 năm để bắt đầu có hiệu lực. Có thể, trong thời gian tới, khả năng vốn đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam sẽ trở nên khó khăn hơn ít nhiều. Tuy nhiên, rất khó có thể định lượng mức độ ảnh hưởng này bởi dòng vốn đầu tư chảy vào mỗi quốc gia còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như tiềm năng nội tại, lợi thế so sánh và chính sách ưu đãi...Việt Nam đã nhận thức được, và thông qua việc Mỹ áp dụng Đạo luật Dodd-Frank, càng củng cố hơn nhận thức của mình về yêu cầu giám sát tài chính, bảo đảm an toàn hệ thống Tài chính-ngân hàng quốc gia, nên đã và đang có nhiều động thái cần thiết và đúng hướng theo tinh thần này.
6. Không còn quá sớm khi nói đến xu hướng điều chỉnh mô hình quản lý kinh tế “hậu suy giảm” trên thế giới
Tại diễn đàn Davos 2010, Tổng thống Pháp N.Sarkozy kêu gọi tiến hành một "Hội nghị Bretton Woods mới", thống nhất mức tỷ giá cố định cho các đồng tiền chủ chốt của thế giới. Thủ tướng Luxembourg đề nghị tăng cường giám sát các nền kinh tế thành viên, thành lập khuôn khổ hành động chung nhằm củng cố kinh tế toàn bộ khu vực đồng euro... Tỷ phú đầu cơ George Soros tại một diễn đàn ở Hong Kong đầu năm 2010 cho rằng thế giới cần sớm có những tiêu chuẩn chung để tạo ra hệ thống giám sát và điều tiết nền tài chính cần sớm có những tiêu chuẩn chung để tạo ra hệ thống giám sát toàn cầu sao cho có thể tránh cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai: "Trong xu thế toàn cầu hóa, sẽ là ý tưởng sai lầm khi giả thuyết rằng thị trường không cần điều tiết bởi bất cứ ai, bản thân các tổ chức tài chính có thể tự kiểm soát rủi ro và không phải nhờ cậy tới sự giám sát bên ngoài". Có thể nói, trên phạm vi toàn cầu, cơ chế quản lý kinh tế “hậu suy giảm” và ngăn chặn tái khủng hoảng kinh tế-tài chính đang từng bước định hình theo hướng vừa tôn trọng tính đặc thù và đa dạng hóa, đa cực hóa, vừa đòi hỏi sự kết hợp hài hòa bàn tay thị trường và bàn tay nhà nước, các nguồn lực nhà nước và tư nhân, thị trường và các nguồn lực trong nước và nước ngoài; bảo đảm lòng tin và sự ổn định trong khu vực tài chính-ngân hàng; coi trọng chất lượng dự báo và hiệu lực giám sát, công tác thông tin, sự đồng bộ và phản ứng chinh sách linh hoạt, cũng như chú ý tính 2 mặt của các chính sách, cơ chế điều tiết quốc gia và quốc tế; đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tập trung nguồn lực và phối hợp hành động chung trên phạm vi khu vực và toàn cầu, thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế. Đặc biệt, cần cải cách và đề cao vai trò trung tâm của IMF và các định chế khu vực, quốc tế khác trong việc điều phối và hỗ trợ các quốc gia thành viên thiết kế các biện pháp chính sách ứng phó với tác động của khủng hoảng và suy giảm kinh tế của các quốc gia, cũng như những nỗ lực trong việc giảm nhẹ tác động tiêu cực với người dân nghèo trên toàn thế giới. Hình thành một thế giới toàn cầu hóa và có tổ chức chặt chẽ hơn, hoạt động hiệu quả và nhân văn hơn…Bản thân việc chuyển bớt 6% quyền bỏ phiếu của IMF từ các nước phát triển vào tay các nền kinh tế mới nổi theo thỏa thuận của Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Xơ Un –Hàn Quốc cuối tháng 11/2010 cũng là tín hiệu mở đầu cho những chuyển dịch cán cân quyền lực mới chưa từng có suốt hơn 50 năm qua trong IMF nói riêng, trên bản đồ kinh tế-tài chính quốc tế nói chung với sự ngày cảng có vị thế quan trọng hơn của những nước mới nổi. Và đó cũng là dấu hiệu của những chuyển dịch mới quan trong cho cơ chế quản lý thế giới mới, thời kỳ hậu khủng hoảng…
Kinh tế thế giới những điểm nhấn năm 2010 và triển vọng năm 2011 (tiếp theo và hết)
TCCT
Năm 2010, GDP toàn cầu đã tăng trở lại và tăng gần 4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới trong 3 thập niên vừa qua (GDP toàn cầu tăng trung bình 3,5% trong giai đoạn 1980-2009). Nhưng