Thời gian qua tiếp tục chứng kiến xu thế gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại trên thế giới. Đặc biệt, số lượng các vụ việc chống lẩn tránh nhằm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang có dấu hiệu tăng lên do một vài nước cho rằng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị họ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Các vụ việc nước ngoài khởi xướng điều tra “lẩn tránh thuế” đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thường thuộc các trường hợp: (i) hàng hóa của nước đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại chuyển tải sang Việt Nam để lấy xuất xứ Việt Nam nhằm lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại; (ii) hàng hóa của nước ngoài lấy xuất xứ Việt Nam để hưởng thuế suất ưu đãi theo các hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc các quy định ưu đãi thuế quan. Tuy nhiên, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) không quy định cụ thể về hành vi lẩn tránh, pháp luật về các hành vi lẩn tránh “bất hợp pháp” của các nước cũng rất khác nhau và thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho việc tuân thủ của các doanh nghiệp.
Theo số liệu của Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương, trong số 22 vụ việc bị nước ngoài điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ, sản phẩm thép bị khởi kiện nhiều nhất với 6 vụ, chiếm tỷ lệ 30%.
Đa số các vụ việc điều tra lẩn tránh thuế với sản phẩm thép đều do Hoa Kỳ tiến hành, trong đó, riêng với sản phẩm thép chống ăn mòn (CORE) và thép cán nguội (CRS), Hoa Kỳ đã điều tra tổng cộng 5 vụ việc.
Thép là một trong những sản phẩm xuất khẩu có nhiều chủng loại với kim ngạch hàng năm khoảng 4,2 tỷ USD năm 2019, xuất khẩu sang hơn 30 thị trường khác nhau, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ khoảng 300 triệu USD, chiếm tỷ lệ 7,4% trong tổng xuất khẩu thép của Việt Nam.
Trong tất cả các vụ việc nói trên, Hoa Kỳ đều kết luận thép CORE và CRS của Việt Nam được sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu từ các nước/vùng lãnh thổ là lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại Hoa Kỳ đang áp dụng do mức độ đầu tư; chuyển đổi trong quá trình sản xuất sản phẩm thép này tại Việt Nam là không đáng kể. Với kết luận tồn tại lẩn tránh thuế, Hoa Kỳ áp dụng mức thuế chống lẩn tránh tương đương với mức thuế đang áp dụng cho hàng hóa của Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, Cục Phòng vệ thương mại lưu ý thêm, theo quan điểm của Hoa Kỳ, mục tiêu áp thuế chống lẩn tránh không phải là thép của Việt Nam mà để đảm bảo hiệu lực thực thi các biện pháp phòng vệ thương mại đang áp dụng. Sản phẩm thép được sản xuất từ nguyên liệu của Việt Nam hoặc nguyên liệu nhập khẩu từ các nguồn khác sẽ được phép sử dụng cơ chế khai báo để hưởng miễn trừ áp dụng biện pháp chống lẩn tránh thuế.
Do đó, trên thực tế, kết luận của các vụ việc chống lẩn tránh không tác động đáng kể đến tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới nếu chúng ta phát triển được các ngành thượng nguồn (sản xuất đầu vào). Đây là vấn đề Bộ Công Thương cho rằng các doanh nghiệp cần có chiến lược rõ ràng trong dài hạn.
Mặt khác, bên cạnh sự hỗ trợ kịp thời của Chính phủ thông qua việc trao đổi, làm việc trực tiếp với các cơ quan điều tra, thực tiễn các vụ việc điều tra gian lận xuất xứ, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đã cho thấy sự chuẩn bị, tham gia của các doanh nghiệp thép Việt đóng vai trò then chốt.
Thời gian qua, đối diện trước các vụ việc về phòng vệ thương mại, một số doanh nghiệp bước đầu đã có kinh nghiệm, chủ động bố trí nguồn lực và hợp tác tích cực với cơ quan điều tra nước ngoài trong quá trình điều tra. Đặc biệt, các doanh nghiệp đã nhận thức được việc chỉ thông qua sự chuẩn bị đầy đủ và hợp tác tích cực với cơ quan điều tra, các doanh nghiệp mới có khả năng không bị áp thuế hoặc bị áp thuế với thuế suất không cao.
Tuy vậy, theo ông Nghiêm Xuân Đa – Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, vẫn còn các doanh nghiệp rất lúng túng, thiếu chủ động trong việc chuẩn bị tham gia các vụ kiện. Hay chỉ có doanh nghiệp phải ứng phó trực tiếp mới quan tâm, còn các doanh nghiệp khác “thờ ơ” hơn các vụ việc về phòng vệ thương mại. Nguồn lực để theo đuổi các vụ việc của doanh nghiệp rất hạn chế, như tài chính, mức độ hiểu biết pháp luật về các quy trình điều tra…
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp, tăng trưởng của thương mại và kinh tế toàn cầu sẽ còn gặp khó khăn, xu hướng bảo hộ và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được cho là sẽ tiếp tục gia tăng. Bộ Công Thương khuyến nghị, doanh nghiệp cần chủ động nâng cao hơn nữa nhận thức về nguy cơ bị khiếu kiện, điều tra, các nhóm mặt hàng thường bị kiện, tìm hiểu cơ chế, quy định, thủ tục điều tra của các nước, kịp thời nắm bắt các thay đổi. Từ đó, có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý vụ kiện phòng vệ thương mại khi xây dựng chiến lược xuất khẩu, xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường xuất khẩu để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với khối lượng lớn.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tích cực hoàn thiện hệ thống quản lý, số liệu để đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về thông tin, đồng thời cần hợp tác tối đa với của cơ quan liên quan tại nước nhập khẩu trong các vụ việc điều tra. Thực tiễn cho thấy sự phối hợp, cung cấp thông tin của các doanh nghiệp đóng vai trò quyết định để đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, ngành sản xuất trong nước.
Đáng chú ý, Bộ Công Thương khuyến cáo các doanh nghiệp tuyệt đối không tham gia, tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp: thực tiễn cho thấy, nếu phát hiện các hành vi này, nước nhập khẩu sẽ áp dụng chế tài “trừng phạt” rất nặng, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp sẽ “mất” toàn bộ thị trường xuất khẩu liên quan. Bên cạnh đó, nếu phát hiện các dấu hiệu vi phạm, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng để điều tra, ngăn chặn, tránh để hành vi của một vài doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính.
Về phía mình, Bộ Công Thương luôn duy trì các kênh liên lạc với cơ quan điều tra phòng vệ thương mại của các nước xuất khẩu, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, luật sư, hiệp hội và doanh nghiệp để kịp thời cập nhật tình hình, thông tin các vụ việc phòng vệ thương mại nhằm cung cấp tới các bên liên quan một cách nhanh chóng và chính xác; xây dựng hệ thống Cảnh báo sớm nhiều ngành hàng, sản phẩm có nguy cơ bị kiện phòng vệ thương mại tại nhiều thị trường khác nhau.