 
         
        
Ông Nguyễn Thanh Bình: Điện Biên bước vào giai đoạn 2021-2025 với xuất phát điểm rất thấp, là tỉnh miền núi, biên giới, tỷ lệ hộ nghèo cao, cơ sở hạ tầng yếu và phân tán. Tuy nhiên, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân, chương trình xây dựng NTM đã đạt nhiều kết quả tích cực, vượt chỉ tiêu được Thủ tướng Chính phủ giao.
Đến 1/7/2025 trước khi bỏ cấp huyện thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, toàn tỉnh có 02 đơn vị cấp huyện đủ điều kiện xét công nhận đơn vị hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, 02 xã đạt chuẩn kiểu mẫu, 05 xã đạt chuẩn nâng cao, 26/115 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 22,6%), tăng 05 xã so với đầu giai đoạn. Đáng chú ý, đã có 267 thôn, bản được công nhận đạt chuẩn NTM hoặc kiểu mẫu, đây là một bước tiến đáng kể so với giai đoạn trước.

Về hạ tầng, 100% xã đã có đường ô tô đến trung tâm, hơn 760 km đường giao thông nông thôn được làm mới, nâng cấp, gần 100% xã có công trình thủy lợi đáp ứng sản xuất, và 93% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia. Nhiều công trình trường học, trạm y tế, nhà văn hóa được đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và diện mạo nông thôn.
Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt: thu nhập bình quân khu vực nông thôn đạt 19,5 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 62%, và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM” lan tỏa sâu rộng, phát huy sức dân làm chủ thể. Những con số đó thể hiện sự nỗ lực, bứt phá của Điện Biên dù còn nhiều khó khăn đặc thù.

Ông Nguyễn Thanh Bình: Đúng vậy, với một tỉnh miền núi, hạ tầng là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất và cải thiện dân sinh. Trong 5 năm qua, tỉnh đã ưu tiên hơn 13.159 tỷ đồng huy động từ nhiều nguồn lực để đầu tư cho xây dựng NTM, trong đó vốn tín dụng chiếm phần lớn, trên 7.550 tỷ đồng, cùng với ngân sách Trung ương và địa phương, doanh nghiệp và nhân dân đóng góp.
Nhờ đó, hạ tầng nông thôn đã có bước tiến rõ rệt. Đường giao thông liên thôn, liên xã được cứng hóa, nhiều công trình điện, nước, trường học, chợ nông thôn được nâng cấp. Hệ thống thủy lợi được kiên cố hóa trên 163 km kênh mương, đảm bảo tưới tiêu cho hơn 108.000 ha đất sản xuất. Đây là nền tảng quan trọng giúp các địa phương tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp.

Về sản xuất, Điện Biên tập trung phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với thế mạnh vùng miền, hình thành vùng chuyên canh lúa gạo hơn 4.000 ha, cà phê 2.500 ha, mắc ca trên 10.000 ha, cùng nhiều mô hình liên kết chuỗi giá trị nông sản. Đến nay, tỉnh đã có 33 chuỗi sản xuất nông sản an toàn được xác nhận và duy trì hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh đó, Chương trình OCOP tạo sức lan tỏa mạnh mẽ. Đến hết tháng 6 năm 2025, Điện Biên có 138 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, trong đó 5 sản phẩm đạt 4 sao, thể hiện bước tiến trong nâng cao chất lượng, bao bì, truy xuất nguồn gốc và quảng bá thương hiệu. Nhiều sản phẩm đã vươn ra thị trường ngoài tỉnh, góp phần tăng thu nhập cho người dân nông thôn.

Ông Nguyễn Thanh Bình: Theo báo cáo của Sở Công Thương, đến giữa năm 2025, toàn tỉnh đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia và tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện đạt khoảng 95%, song vẫn còn gần 5% hộ dân ở vùng sâu, vùng xa chưa có điện. Thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục huy động nguồn lực để hoàn thiện Dự án ‘Bừng sáng Điện Biên’ với tổng mức đầu tư 1.260 tỷ đồng, mở rộng cấp điện đến 110 thôn, bản thuộc 47 xã trên địa bàn 7 huyện, đồng thời đầu tư nâng cấp lưới điện hạ áp nhằm bảo đảm cấp điện ổn định, an toàn cho người dân.

Cùng với đó, tỉnh cũng chú trọng phát triển hạ tầng thương mại nông thôn, đã và đang đầu tư xây dựng 13 chợ với tổng vốn trên 243 tỷ đồng, hình thành hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện lợi trên khắp địa bàn. Trong giai đoạn 2026–2030, Điện Biên sẽ tiếp tục đề xuất bổ sung đầu tư 24 chợ dân sinh, chợ biên giới, chợ cửa khẩu, qua đó tạo điều kiện thúc đẩy giao thương, tiêu thụ sản phẩm OCOP, hàng nông sản và mở rộng thị trường tiêu thụ cho khu vực nông thôn.

Ông Nguyễn Thanh Bình: Điện Biên có đặc thù địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, dân cư phân tán, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao (trên 80%) nên việc huy động nguồn lực xã hội hóa còn hạn chế. Hạ tầng cơ sở ở nhiều xã vùng cao vẫn chưa đồng bộ; nhiều thôn, bản chưa có điện lưới quốc gia; một số công trình văn hóa, y tế, giáo dục xuống cấp hoặc chưa đáp ứng chuẩn, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn thấp (năm 2024 ước đạt 19,5 triệu đồng/người/năm) chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp; đất đai manh mún, độ dốc cao; dân cư sống phân tán, nhận thức của người dân không đồng đều, Nhu cầu vốn thực hiện Chương trình lớn nhưng ngân sách địa phương có hạn, trong khi huy động xã hội hóa và người dân còn thấp, việc duy trì các tiêu chí chưa được quan tâm đúng mức.

Trước 1/7/2025, tỉnh Điện Biên vẫn còn 03 huyện chưa có xã đạt chuẩn nông thôn mới (Điện Biên Đông, Mường Chà, Tủa Chùa). Sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hiện tại chưa có xã nào được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, có 03/42 xã sát nhập trên cơ sở các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, đủ điều kiện xét công nhận sau khi sát nhập. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của tỉnh vẫn còn cao (gần 40%), trong đó có hơn 5.600 hộ còn ở nhà tạm, nhà dột nát cần được hỗ trợ.
Công tác duy tu, bảo dưỡng hạ tầng ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; năng lực cán bộ làm công tác NTM ở cấp xã phần lớn kiêm nhiệm, chưa được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, khối lượng công việc lớn, chất lượng tham mưu chưa cao. Tuy nhiên, chúng tôi xem đó là thách thức cần vượt qua để tiếp tục hoàn thiện mục tiêu đến năm 2030.

Ông Nguyễn Thanh Bình: Thời gian tới, Trung ương dự kiến tích hợp 03 Chương trình MTQG (Chương trình MTQG xây dựng NTM, Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững, Chương trình MTQG phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số) và Bộ tiêu chí thực hiện Chương trình (Theo dự thảo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường) có 10 tiêu chí và 77 chỉ tiêu, với mục tiêu toàn tỉnh đến năm 2030 có 05 xã nông thôn mới và 02 xã nông thôn mới hiện đại nên để nâng cao chất lượng chương trình cần tập trung một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị, kinh tế nông thôn và tăng thu nhập. Chuyển từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp, tập trung phát triển vùng sản xuất hàng hóa tập trung, liên kết tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc đặc sản phù hợp với thế mạnh của tỉnh. Gắn xây dựng NTM với tái cơ cấu ngành nông – lâm nghiệp; chú trọng tới phát triển chăn nuôi, trồng trọt có giá trị trên đất đai miền núi.
Thứ hai, tập trung đầu tư hạ tầng, môi trường, dịch vụ và nâng cao đời sống người dân nông thôn. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn: giao thông, cấp nước, điện, trường học, nhà văn hoá, khu thể thao, đặc biệt ở vùng sâu, vùng khó khăn. Nâng cao chất lượng dịch vụ nông thôn: giáo dục nghề, y tế, truyền thông, thông tin số. Bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan nông thôn “sáng – xanh – sạch – đẹp”, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thứ ba, tăng cường vai trò chủ thể của người dân, huy động nguồn lực đa dạng và quản lý tốt hơn. Nâng cao vai trò của nhân dân trong xây dựng NTM: từ bàn bạc, tham gia, đóng góp (ngày công, hiến đất, vật liệu…), giám sát. Huy động đa dạng nguồn lực: ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, xã hội, vốn tín dụng… để thực hiện chương trình, đặc biệt ở những xã vùng cao, khó khăn.

PV: Xin trân thành cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
Bài: Hoàng Dương
Thiết kế: Duy Kiên