[eMagazine] Dư địa cho hàng Việt thâm nhập thị trường Halal trong CPTPP
Thị trường Halal mở ra nhiều cơ hội cho hàng Việt trong việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, trong đó các nước Thành viên của Hiệp định Đối tác Tiến bộ và toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho thấy nhiều tiềm năng khai thác.
Ngành công nghiệp Halal là ngành cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo, bao gồm thực phẩm - đồ uống, du lịch, thủy sản... Hiện nay, ngành công nghiệp này ngày càng phát triển với nhu cầu đối với các sản phẩm Halal ngày càng gia tăng và đang trở thành xu hướng toàn cầu.
Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), chi tiêu cho sản phẩm Halal của cộng đồng Hồi giáo toàn cầu ngày càng tăng cao, hiện đạt gần 2.000 tỷ USD và dự báo tăng lên 15.000 tỷ USD vào năm 2050.
Bên cạnh cộng đồng Hồi giáo, sản phẩm Halal được nhiều thị trường quan tâm, ưa thích bởi tính chất lượng, an toàn, bền vững của chứng nhận này. Do đó doanh nghiệp có năng lực sản xuất được hàng Halal cũng dễ tiếp cận được các thị trường khó tính.
Trong khi đó, Việt Nam được đánh giá có tiềm năng xuất khẩu sản phẩm Halal, lọt top 20 nước xuất khẩu thực phẩm hàng đầu thế giới và là một trong 15 nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Việt Nam cũng là mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng toàn cầu với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đang thực thi, trong đó có nhiều FTA thế hệ mới…
“Việt Nam sở hữu nguồn nguyên liệu thô tiềm năng dồi dào cho ngành Halal, bao gồm cà phê, gạo, hải sản, sản phẩm nuôi trồng thủy sản, gia vị, các loại hạt, rau củ và trái cây, cho thấy khả năng lớn trong việc sản xuất các sản phẩm cuối cùng”.
Ông Ramlan Bin Osman, Giám đốc Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia (HALCERT)
Tuy có tiềm năng lớn, năng lực xuất khẩu thuộc Top 20 thế giới nhưng xuất khẩu sản phẩm Halal của Việt Nam còn rất khiêm tốn, chưa có tên trong danh sách 20-30 nước cung cấp thực phẩm Halal toàn cầu.
Nguyên nhân do doanh nghiệp sản xuất sản phẩm Halal của Việt Nam hiện còn gặp khá nhiều khó khắn và thách thức trong việc tiếp cận thị trường.
Trong đó phải kể đến hạn chế về đăng ký chứng nhận, tính tới thời điểm hiện nay, tại Việt Nam mới chỉ có 2 đơn vị được cho phép cấp chứng chỉ Halal, một trong số đó là Văn phòng Chứng nhận Halal Việt Nam (HCA). Sự hạn chế này khiến cho nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó để được cấp chứng nhận, phải thông qua các doanh nghiệp nước ngoài để tiếp cận thị trường.
Về quy trình sản xuất, để đạt được chứng nhận Halal, doanh nghiệp cần phải tuân thủ các quy trình sản xuất nghiêm ngặt. Đây hầu như là vấn đề chung của doanh nghiệp Việt, khi những khâu quản lý, sản xuất và vận hành còn yếu, chưa được đầu tư và triển khai bài bản. Cơ sở hạ tầng của nhiều doanh nghiệp còn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất theo tiêu chuẩn Halal. Đây cũng là một trong những rào cản lớn cho các sản phẩm của Việt Nam, không chỉ ở thị trường Halal, mà còn nhiều thị trường khó tính khác.
Về thị trường, là những doanh nghiệp mới gia nhập thị trường Halal, các doanh nghiệp Việt sẽ phải đối diện với nhiều thách thức từ các nhà sản xuất, xuất khẩu lớn trên thị trường, cả tại nội địa và quốc tế.
Theo thống kê, hiện nay cộng đồng người Hồi giáo có gần 1,8 tỷ người, chiếm tỷ lệ khoảng 23% dân số thế giới, trong đó một số nước Thành viên Hiệp định CPTPP như: Malaysia, Brunei, Singapore đều là các thị trường lớn tiêu thụ thực phẩm Halal nhưng quy mô sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và rất quan tâm đến các sản phẩm của Việt Nam.
Trong số đó, tiềm năng thị trường Halal của Malaysia được đánh giá là hàng đầu thế giới. Thông tin tại Hội thảo “Triển vọng xuất khẩu vào thị trường Halal thông qua cửa ngõ Malaysia năm 2025” diễn ra ngày 7/8/2025 tại TP. Hồ Chí Minh, bà Shariza binti Abdul Rasheed, Giám đốc Sản phẩm Halal - Ngân hàng Maybank Malaysia cho biết, là quốc gia đi đầu về phát triển Halal, quy mô thị trường Halal Malaysia được dự báo đạt 113,2 tỷ USD, trải rộng từ thực phẩm, đồ uống (85,2 tỷ USD), mỹ phẩm (10,5 tỷ USD) đến dược phẩm (5,9 tỷ USD). Nhu cầu của thị trường đang vượt xa nguồn cung đến 80%, là cơ hội rất lớn để doanh nghiệp Việt khai thác hiệu quả.
Với Singapore - đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam trong ASEAN, năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore đạt kỷ lục 31,67 tỷ SGD, tăng 9,49% so với năm 2023, trong đó các sản phẩm Halal đóng góp một phần quan trọng.
Singapore là một quốc gia rất có kinh nghiệm trong phát triển ngành thương mại, trong đó có thương mại các sản phẩm Halal. Singapore đang có hệ thống chứng nhận Halal rất tốt và được thừa nhận rộng rãi bởi các quốc gia Hồi giáo như Brunei, Indonesia, Malaysia và các đối tác thương mại lớn khác như UAE, Úc, châu Âu và Mỹ.
Với các lợi thế đó, Singapore là cửa ngõ lý tưởng cho các sản phẩm Halal xâm nhập vào thị trường các quốc gia Hồi giáo lớn thông qua hệ thống hạ tầng logistics và hệ thống tài chính rất phát triển cho thương mại quốc tế. Các chuyên gia đánh giá Halal là một xu hướng nhiều tiềm năng trong tương lai cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác thị trường Singapopre và tận dụng vai trò trung chuyển của thị trường Singapore đi các quốc gia Hồi giáo khác.
Brunei - một Thành viên khác trong Hiệp định CPTPP cũng là một thị trường Halal tiềm năng cho Việt Nam. Brunei được xác định là đối tác Halal quan trọng của Việt Nam trong khu vực do tiềm năng và sự bổ sung mạnh mẽ của hai nền kinh tế. Việt Nam và Brunei đang ưu tiên hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp Halal, tập trung vào chế biến thực phẩm Halal, các sản phẩm nông lâm thủy sản và xuất khẩu. Hai nước tăng cường hợp tác doanh nghiệp, chia sẻ kinh nghiệm về chứng nhận Halal và phát triển nguồn nhân lực Halal để khai thác tiềm năng thương mại. Thời gian qua, một số địa phương và doanh nghiệp Việt Nam đã xúc tiến kết nối với các đối tác tiềm năng tại Brunei, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu sản phẩm thịt, thủy sản, đồ uống và các ngành hàng khác.
Dự báo thị trường Halal sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh tại nhiều khu vực, trong đó có các nước Thành viên Hiệp định CPTPP. Tiêu chuẩn Halal ngày càng mở rộng bao phủ nhiều lĩnh vực như: thực phẩm, đồ uống, tài chính, thời trang, mỹ phẩm, dược phẩm và du lịch, kiểm soát xuyên suốt từ nguồn cung đến các kênh phân phối như nhà bán lẻ, nhà hàng, thương mại điện tử.
Với lợi thế ưu đãi của Hiệp định CPTPP, đây là cơ hội lớn để Việt Nam chủ động tiếp cận và mở rộng xuất khẩu vào các thị trường đầy tiềm năng này, qua đó cải thiện năng lực thị trường và mở ra các cơ hội xuất khẩu sản phẩm Halal sang các thị trường khác cho doanh nghiệp Việt Nam.
Bà Zaimah Osman, Lãnh sự Thương mại thuộc Cục Xúc tiến thương mại Malaysia (MATRADE) tại TP. Hồ Chí Minh cho biết, Malaysia tiếp tục xem Việt Nam là đối tác chiến lược quan trọng trong khu vực và luôn sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp Việt trong quá trình tiếp cận thị trường Halal.
Bà Zaimah Osman - Lãnh sự Thương mại, Cục Xúc tiến Thương mại Malaysia tại TP. HCM khẳng định: Việt Nam là một đối tác quan trọng trong hợp tác thương mại của Malaysia, đặc biệt là hàng hóa Halal
Một bước tiến đáng chú ý là Cơ quan Chứng nhận Halal Việt Nam (HCA) đã được Tổ chức JAKIM của Malaysia chính thức công nhận. Điều này mở đường cho sản phẩm Việt Nam thâm nhập sâu vào hệ thống phân phối Halal tại Malaysia và nhiều quốc gia Hồi giáo khác. Chứng nhận Halal không chỉ là yêu cầu mang tính tôn giáo, mà còn là biểu tượng cho tiêu chuẩn vệ sinh, đạo đức và tính bền vững toàn cầu, đòi hỏi khả năng truy xuất và minh bạch trong toàn chuỗi cung ứng.
Bên cạnh việc tiếp cận các sàn thương mại điện tử B2B như Salaam Market - nền tảng Halal đầu tiên của Malaysia, các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội gặp gỡ đối tác, nhà phân phối bản địa thông qua các chương trình kết nối doanh nghiệp do MATRADE tổ chức. MATRADE có một mạng lưới toàn cầu gồm 48 văn phòng, trong đó có các văn phòng đại diện tại TP. HCM và Hà Nội cùng các dịch vụ tư vấn thương mại và thông tin thị trường để thúc đẩy hợp tác kinh doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác Halal.
Ngoài ra, các công cụ hỗ trợ tài chính như thư tín dụng (LC), dịch vụ tài trợ thương mại từ ngân hàng Halal, cùng việc tham gia các hội chợ quốc tế như MIHAS cũng sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng mạng lưới, tiếp cận khách hàng và thúc đẩy xuất khẩu một cách bền vững vào thị trường Halal đầy tiềm năng.
Ở góc độ chính sách, các chuyên gia cho rằng, các Bộ, ngành, cơ quan liên quan cần triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 2/2023. Đây là định hướng chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đưa Việt Nam trở thành điểm đến đáng tin cậy trong chuỗi cung ứng Halal toàn cầu. Đồng thời tận dụng tối đa ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, đặc biệt với các quốc gia có đông dân số Hồi giáo như: Malaysia, Brunei...
Để vượt qua các rào cản trong tiếp cận thị trường Halal, các chuyên gia đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ như: Thúc đẩy ký kết cơ chế công nhận lẫn nhau với các tổ chức chứng nhận Halal uy tín, trong đó có những tổ chức chứng nhận Halal ở các nước CPTPP như: JAKIM - Malaysia, MUIS - Singapore…); phát triển các khu công nghiệp và trung tâm logistics chuyên biệt cho ngành Halal theo mô hình đã thành công tại Malaysia...
Cùng với đó, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu, xúc tiến thành lập các trung tâm đào tạo chuyên sâu tại Hà Nội, TP.HCM và Cần Thơ sẽ giúp hình thành đội ngũ chuyên gia Halal có năng lực đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường. Chương trình đào tạo nên mang tính liên ngành, tích hợp kiến thức về luật Hồi giáo, công nghệ thực phẩm, vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và quản trị chuỗi cung ứng.
Bên cạnh đó, số hóa quy trình chứng nhận, ứng dụng công nghệ blockchain trong truy xuất nguồn gốc; xây dựng thương hiệu Halal quốc gia - “Vietnam Halal Certified”. Qua đó giúp tăng tính minh bạch, giảm chi phí và đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp tạo lợi thế cạnh tranh trong tiếp cận thị trường và định vị hình ảnh quốc gia uy tín trong mắt người tiêu dùng Halal toàn cầu.
Bài: Thanh Thúy Ảnh: Thanh Hà - Media Team Thiết kế: Maika Lê