[eMagazine] Hiệp định VIFTA: Những cam kết chính và tác động với Việt Nam
29/09/2025 lúc 16:42 (GMT)

[eMagazine] Hiệp định VIFTA: Những cam kết chính và tác động với Việt Nam

 

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Israel (VIFTA) là FTA đầu tiên giữa một nước Đông Nam Á với Israel và là FTA thứ 16 giữa Việt Nam với các đối tác toàn cầu.

Ngày 25/7/2023, tại Văn phòng Thủ tướng Israel, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên đã cùng Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Israel (VIFTA). Hiệp định có hiệu lực từ ngày 17/11/2024.

Israel là quốc gia đầu tiên tại khu vực Tây Á mà Việt Nam ký kết FTA và Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á mà Israel ký kết FTA.

ký kết hiệp định EVFTA
Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên cùng Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Israel (VIFTA)
tít xen 1

 

Hiệp định gồm 15 Chương và một số phụ lục đính kèm các chương với các nội dung: Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung; Thương mại hàng hóa; Xuất xứ hàng hóa; Quản lý hải quan và tạo thuận lợi thương mại; Phòng vệ thương mại; Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật; Hàng rào kỹ thuật trong thương mại; Thương mại dịch vụ xuyên biên giới; Đầu tư; Mua sắm Chính phủ; Ngoại lệ; Minh bạch hóa; Các điều khoản hành chính; Giải quyết tranh chấp; Các điều khoản cuối cùng.

cam kết VIFTA

 

Cam kết chính của Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Israel (VIFTA) tập trung vào việc tự do hóa thương mại hàng hóa với tỷ lệ tự do hóa cao, thúc đẩy hợp tác về thương mại dịch vụ và đầu tư, và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực công nghệ cao như nông nghiệp, quản lý nước, và năng lượng tái tạo, đồng thời giảm thiểu rào cản pháp lý cho đầu tư. 

Về tự do hóa thương mại hàng hóa, hai bên cam kết nâng cao tỷ lệ tự do hóa thương mại, với Israel tự do hóa 92,7% số dòng thuế và Việt Nam là 85,8% số dòng thuế vào cuối lộ trình cam kết.

cam kết của Israel

Về thương mại dịch vụ và đầu tư, Hiệp định VIFTA góp phần tăng cường hợp tác đầu tư bằng cách giảm bớt các rào cản pháp lý, mang lại sự tự tin cho các nhà đầu tư từ cả hai nước. 

Về hợp tác công nghệ và lĩnh vực tiềm năng, Hiệp định mở ra cơ hội hợp tác sâu rộng trong các lĩnh vực công nghệ cao như: Nông nghiệp (Chuyển giao công nghệ tưới tiêu hiện đại từ Israel sang Việt Nam); Quản lý nguồn nước và năng lượng tái tạo (Hợp tác phát triển các giải pháp tiên tiến)…. 

ý kiến Israel
hiệp định VIFTA

 

Việt Nam và Israel đã trải qua quá trình đàm phán khó khăn, nhưng với nhiều nỗ lực và quyết tâm, hai Bên cuối cùng đã ký được Hiệp định và đưa vào thực thi. Hiệp định VIFTA sẽ tạo ra tiền đề cho hai Bên triển khai nhiều hoạt động trao đổi thương mại, đầu tư, du lịch và các hoạt động giao lưu khác, giúp hai nước tối đa hóa những dư địa hợp tác, tiềm năng của mình để tương xứng với mối quan hệ song phương Việt Nam - Israel.

Theo Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), với các đối tác thương mại tự do khác, Việt Nam thường chú trọng tới cơ hội tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu. Với Israel, Việt Nam hướng đến thương mại hai chiều, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mới như đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, điện tử, thiết bị bán dẫn… 

Israel vừa là đối tác quan trọng của Việt Nam, vừa là cầu nối giúp Việt Nam tiếp cận thị trường khu vực Trung Đông.

Với Việt Nam, Hiệp định VIFTA mở rộng khả năng tiếp cận thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu như dệt may, giày dép, thủy sản và điện tử, giúp doanh nghiệp cạnh tranh trong nền kinh tế đổi mới sáng tạo của Israel.

Về phía Israel, Hiệp định mang lại cơ hội cho các công ty Israel thâm nhập vào thị trường Việt Nam, nơi có gần 100 triệu người tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng GDP liên tục vượt 6% mỗi năm. Các lĩnh vực hợp tác trọng điểm bao gồm công nghệ nông nghiệp, quản lý nguồn nước, và năng lượng tái tạo...

lợi ích VIFTA

 

Với việc đạt được các thỏa thuận tại tất cả các chương trong hiệp định, nhất là cam kết mạnh mẽ của hai bên về nâng cao tỉ lệ tự do hóa thương mại với tỉ lệ tự do hoá tổng thể đến cuối lộ trình cam kết của Israel là 92,7% số dòng thuế trong khi của Việt Nam là 85,8% số dòng thuế, hai bên kỳ vọng rằng thương mại hai chiều sẽ có sự tăng trưởng vượt bậc, sớm đạt mức 3 tỷ USD và cao hơn nữa trong thời gian tới.

Ngoài việc góp phần nâng cao kim ngạch trao đổi thương mại hàng hóa hai chiều, VIFTA được kỳ vọng là đòn bẩy giúp tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước về đầu tư, thương mại dịch vụ, chuyển đổi số, công nghệ…

doanh nghiệp Israel
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat chứng kiến Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa doanh nghiệp hai bên tại Diễn đàn Kinh tế và giao thương doanh nghiệp Việt Nam - Israel (ngày 16/8/2023)

 

Có thể nói, Hiệp định VIFTA thể hiện rõ định hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu cho hàng hóa của Việt Nam.

Phân tích rõ hơn về tác động của Hiệp định này, các chuyên gia nhìn nhận: Israel không phải là đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam do nằm ở khu vực Tây Nam Á, với khu vực này, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam chưa cao, song Việt Nam vẫn đang nỗ lực để mở rộng thị trường bởi hàng hóa giữa hai bên có tính chất bổ sung cho nhau.

Israel hiện là thị trường xuất khẩu đứng thứ 3, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam tại khu vực Tây Á. Do đó, khi FTA đi vào thực thi sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại hai chiều đi lên.

Bên cạnh đó, với khu vực Tây Á, hiện Israel đóng vai trò như một bàn đạp để hàng hóa Việt Nam hiện diện rõ hơn ở khu vực Tây Nam Á. Nếu vào được thị trường Israel, hàng hóa Việt Nam sẽ có cơ hội vào được rất nhiều thị trường khác của khu vực.

ảnh 1
ảnh 2
ảnh 3
ảnh 4

 

Một điểm nữa, Israel là một nền kinh tế có công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ trong nông nghiệp. Do đó, FTA này không chỉ giúp khơi mở hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước mà còn giúp thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao của Việt Nam - lĩnh vực Việt Nam rất cần và muốn phát triển nhưng sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, lũy kế đến hết tháng 9/2024, Israel có 44 dự án với tổng số vốn FDI 153,3 triệu USD tại Việt Nam, đứng thứ 43 trong số 153 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư FDI vào nước ta. Cho đến nay, Israel là nhà đầu tư lớn thứ 2 tại khu vực Tây Á-Trung Đông (sau Thổ Nhĩ Kỳ) vào Việt Nam.

Các dự án đầu tư của Israel vào Việt Nam tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực, theo thứ tự từ cao xuống thấp, như công nghiệp chế biến, chế tạo, y tế và dịch vụ trợ giúp xã hội, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, công nghệ thông tin, môi trường, xử lý nước thải, bất động sản du lịch… Theo địa bàn đầu tư, Israel đã có đầu tư tại các tỉnh, thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội…

Xét về mặt quy mô thương mại và đầu tư, so với các FTA đã ký như FTA với EU, CPTPP…, FTA Việt Nam-Israel không có quy mô lớn nhưng lại có nhiều ý nghĩa trong việc hướng tới tương lai. Hiệp định này sẽ giúp Việt Nam vừa đa dạng hóa, đa phương hóa, mở rộng quan hệ thương mại với khu vực Tây Á, Tây Nam Á, là khu vực mà chúng ta vẫn đang có những quan hệ tương đối hạn chế và mong muốn được mở rộng. Đồng thời, đa dạng hóa các nguồn đầu tư trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động hiện nay.

          

Bài: Thanh Thành
Ảnh và thiết kế: Maika

          

Trang chủ

Bài mới

Xem nhiều

Multimedia

Tạp chí