Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Nâng cao năng lực trong lĩnh vực phòng vệ thương mại (PVTM) trong bối cảnh hội nhập sâu, rộng là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Chính phủ. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế có nêu "Chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước".
phòng vệ thương mại
Thép là một trong những những ngành hàng bị nhiều nước áp dụng biện pháp tự vệ

 

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng nêu rõ như sau: "Tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi của các hiệp định, thỏa thuận thương mại để thúc đẩy xuất khẩu; đồng thời có biện pháp phòng vệ thích hợp để bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng".

Thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết số 06-NQ-TW ngày 05 tháng 11 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có nêu “trong 5-10 năm tới, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết tranh chấp quốc tế; có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp vươn lên; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.”

Cùng với việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- Liên minh châu Âu (EVFTA), trong bối cảnh các nước tăng cường sử dụng các biện pháp PVTM nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước; để thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, yêu  cầu nâng cao năng lực PVTM một cách tổng thể, toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ hợp pháp, hợp lý sản xuất trong nước là yêu cầu ngày càng trở lên cấp thiết.

Thời gian qua, việc triển khai công tác phòng vệ thương mại, bảo đảm lợi ích của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế đã được Bộ Công Thương thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện trên tất cả các khía cạnh từ việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, thành lập cơ quan chuyên môn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về PVTM (Cục Phòng vệ thương mại thuộc Bộ Công Thương) đến việc ban hành hàng loạt các chương trình, đề án lớn nhằm nâng cao năng lực thực thi trong lĩnh vực PVTM, qua đó đã đạt được một số kết quả tích cực, cụ thể:

Về công tác kháng kiện, thời gian qua số lượng các vụ việc điều tra, áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của ta tiếp tục gia tăng. Tính đến nay, Việt Nam đã bị các nước khởi xướng điều tra gần 200 vụ việc PVTM đối với nhiều mặt hàng, gồm cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng như thủy sản (tôm, cá tra), sắt thép, nhôm, gỗ, v.v.

Trong các vụ việc đã xử lý, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hỗ trợ doanh nghiệp thông qua nhiều hoạt động như: (i) cảnh báo sớm nguy cơ bị kiện; (ii) cung cấp thông tin cập nhật, kịp thời giúp doanh nghiệp nắm được diễn biến vụ việc; (iii) tư vấn một số vấn đề pháp lý, quy trình thủ tục điều tra, quy định/thông lệ điều tra của nước khởi kiện và hướng xử lý cho doanh nghiệp; (iv) tham gia hợp tác, trả lời bản câu hỏi điều tra. Nhờ đó, Việt Nam đã thu được một số kết quả tích cực. Trong đó, đã kháng kiện thành công đối với khoảng 43% vụ việc; đảm bảo nhiều mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng như cá basa, tôm tiếp tục được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU… với thuế suất bằng 0% hoặc ở mức rất thấp; khiếu kiện 5 vụ việc ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, trong đó 3 vụ đã kết thúc với kết quả tích cực.

Về công tác khởi kiện, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng, Việt Nam đã và đang phát huy vai trò của các biện pháp PVTM như một công cụ để bảo đảm môi trường thương mại công bằng nhằm ngăn chặn tác động tiêu cực của hàng nhập khẩu đến sản xuất trong nước và lao động, việc làm, bảo đảm an ninh kinh tế và an sinh xã hội. Tính đến nay, Việt Nam đã điều tra 19 vụ việc PVTM và đang xử lý hồ sơ khởi kiện của nhiều ngành hàng khác. Các sản phẩm bị điều tra, áp thuế tương đối đa dạng từ nguyên vật liệu như sắt thép, kim loại, hóa chất, nhựa, phân bón cho đến hàng tiêu dùng như bột ngọt, đường. 

Xét một cách tổng thể, các biện pháp PVTM kịp thời do Bộ Công Thương áp dụng đã góp phần bảo vệ việc làm của hơn 150.000 người lao động thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước với mức thuế thu được ước tính lên tới hàng nghìn tỷ đồng cũng như bảo vệ cho hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước trong các vụ việc chống bán phá giá với ước tính chiếm khoảng 5,12% tổng GDP Việt Nam năm 2019.

Nhờ công cụ PVTM, nhiều doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất. Các biện pháp này cũng góp phần thực hiện các giải pháp liên quan tới xử lý 12 dự án thua lỗ của ngành Công Thương, trong đó, một số doanh nghiệp đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất như Công ty Phân bón DAP-Vinachem (Đình Vũ - Hải Phòng), Công ty Thép Việt Trung, Công ty Thép Việt Ý, Công ty Thép Pomina…

Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về các biện pháp PVTM được nâng cao. Cùng với các chương trình, hoạt động hỗ trợ, phổ biến thông tin, kiến thức về PVTM do Bộ Công Thương, VCCI, các Hiệp hội ngành hàng tổ chức, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về các biện pháp PVTM đã có nhiều chuyển biến tích cực so với trước đây. Việc doanh nghiệp ngày càng chủ động phối hợp với Bộ Công Thương trong các vụ việc khởi kiện và kháng kiện thể hiện rõ mức độ quan tâm của doanh nghiệp đối với các biện pháp này.

Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong giai đoạn vừa qua nhưng công tác PVTM của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập mới của Việt Nam như năng lực PVTM của nhiều ngành hàng, doanh nghiệp chưa được nâng cao; hệ thống pháp luật, cơ chế triển khai, phối hợp giữa các cơ quan trong công tác xử lý các vụ việc PVTM nước ngoài còn bất cập; nguồn nhân lực thực hiện công tác PVTM chưa tương xứng với sự gia tăng về số lượng và độ phức tạp của các vụ việc khởi kiện và kháng kiện PVTM.

Để khai thác hiệu quả các Hiệp định FTA thế hệ mới trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, xung đột thương mại đang diễn biến phức tạp, các nước trên thế giới cũng đang tăng cường sử dụng các biện pháp PVTM để bảo vệ sản xuất trong nước, các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, năng lực PVTM và đẩy mạnh việc thực hiện trên cơ sở một số định hướng sau:

Thứ nhất, nghiên cứu rà soát và hoàn thiện pháp luật PVTM của Việt Nam đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng bộ, phù hợp và thống nhất với các cam kết quốc tế đồng thời đơn giản hóa thủ tục cho doanh nghiệp;

Thứ hai, tăng cường nguồn lực cho công tác PVTM, kể cả rà soát, tổng kết, đề xuất định hướng kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy của Cơ quan PVTM để đáp ứng yêu cầu thực tiễn về công tác PVTM.

Thứ ba, củng cố cơ chế phối hợp thống nhất, xuyên suốt xử lý các vụ việc PVTM giữa các Bộ, ngành trung ương và địa phương; giữa các cơ quan trong nước và ngoài nước; giữa các cơ quan quản lý nhà nước và hiệp hội. Hoàn thiện việc kết nối cơ sở dữ liệu hải quan với cơ sở dữ liệu về PVTM để phục vụ công tác điều tra, áp dụng và ứng phó với các vụ việc PVTM.

Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo, phổ biến kiến thức pháp luật và thực tiễn xử lý PVTM của Việt Nam và thế giới cho cán bộ cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa .

Thứ năm, xây dựng chiến lược chủ động sử dụng các công cụ PVTM để bảo vệ hợp lý và hợp pháp ngành sản xuất trong nước theo đúng cam kết quốc tế và pháp luật trong nước, cân bằng giữa lợi ích của các ngành sản xuất trong nước và lợi ích người tiêu dùng, đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế xã hội. 

Với các chiến lược và biện pháp cụ thể về PVTM nêu trên, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để tin tưởng rằng công tác PVTM của Việt Nam sẽ ngày càng được nâng cao trong bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, góp phần thực hiện tốt chủ trương nâng cao hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra.

Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương