Sau tai nạn Fukushima
Trước sự phản đối trên diện rộng của dân chúng đối với năng lượng hạt nhân sau vụ tai nạn nghiêm trọng tháng 3/2011, chính phủ Nhật Bản dưới thời Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) cầm quyền đã thực hiện các bước để giảm một cách mạnh mẽ sự phụ thuộc của nước này vào năng lượng hạt nhân: một nguồn điện tải thấp ở mức 30-35% trước khi xảy ra tai nạn và thậm chí được dự đoán tăng lên đến 50% vào năm 2030.
Một năm rưỡi sau khi tai nạn xảy ra, vào cuối mùa hè năm 2012, chính phủ NB đã muốn quyết định giảm năng lượng hạt nhân xuống 0% vào cuối của những năm 2030. Hơn nữa, chính phủ cũng muốn quyết định chấm dứt chương trình chu trình nhiên liệu hạt nhân của nước này, có nghĩa là bỏ đi Nhà máy Tái chế ở Rokkasho-mura (tỉnh Aomori) và 'Monju', một nguyên mẫu lò phản ứng nhanh thử nghiệm (FBR) đang được phát triển ở Tsuruga (tỉnh Fukui). Thực ra, chính phủ NB có ý định ra một quyết định chính thức tại một cuộc họp Nội Các dự kiến vào giữa tháng 10, bất chấp sự phản đối gay gắt từ giới kinh doanh dẫn đầu bởi Nippon Keidanren và Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản với lý do '0 % 'sẽ làm suy yếu nghiêm trọng năng lực cạnh tranh quốc tế của đất nước, do đó gây ảnh hưởng cho nền kinh tế và ngành công nghiệp đang phải vật lộn để phục hồi từ sự đình trệ kinh tế từ 2 thập kỷ này.
Phản đối trong và ngoài nước đối với đề xuất '0%'
Sau đó, bất ngờ ở phút cuối cùng, chính phủ đã từ bỏ quyết định chính thức của Nội Các về vấn đề này. Họ chưa bao giờ giải thích lý do tại sao đã làm như vậy, nhưng rõ ràng là chính sách '0%' đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ cấp địa phương, đặc biệt là từ tỉnh Aomori có Nhà máy Tái chế Rokkasho. Thống đốc tỉnh Aomori và thị trưởng thành phố Rokkasho lên tiếng không chỉ ngừng nhận thêm các chuyến nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng mà còn để gửi các nhiên liệu đã được chấp nhận trở lại các nhà máy điện hạt nhân ban đầu trong phạm vi cả nước. Thống đốc tỉnh Aomori thậm chí đã lên tiếng loại bỏ chất thải phóng xạ mức cao từ nhiên liệu đã qua sử dụng của Nhật Bản được xử lý tại Pháp và Anh theo các hợp đồng thương mại. Phản ứng của họ hoàn toàn hợp lý bởi luôn có được một sự thỏa thuận nhất định trong hai thập kỷ qua giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương của Aomori. Cả Pháp và Anh, về phần mình, ngay lập tức bày tỏ mối quan tâm của mình đối với vấn đề này.
Phản ứng mạnh mẽ hơn, tuy nhiên, đến từ Hoa Kỳ, đồng minh lâu năm của Nhật Bản. Khi hai chính trị gia hàng đầu của đảng Dân chủ Nhật Bản được cử tới Washington vào đầu tháng 10, ngay trước khi quyết định Nội Các dự kiến, để giải thích về chính sách của DPJ, họ gặp phải thái độ hoài nghi thẳng thắn và lo ngại của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ lo ngại về một Nhật Bản suy yếu
Hoa Kỳ bày tỏ một số lo ngại trong Báo cáo Armitage-Joseph Nye Richard được công bố vào giữa tháng 8 năm 2012 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở tại Washington thực hiện. Với tiêu đề 'Liên minh Mỹ-Nhật Bản: giữ chặt sự ổn định ở châu Á', báo cáo này cảnh báo trong các điều khoản rõ ràng phản đối lại các chính sách '0%' được đề nghị chắc chắn sẽ làm suy yếu sức mạnh quốc gia của Nhật Bản như là một 'cái neo' ở khu vực châu Á -Thái Bình Dương nơi mà sự gia tăng nhanh chóng của sức mạnh Trung Quốc đã gây ra nhiều bất ổn trong môi trường chiến lược trong khu vực.
Không cần phải nói, Hoa Kỳ, dưới chính quyền Obama lần thứ hai, cần một Nhật Bản mạnh hoặc thậm chí còn mạnh hơn, như là một đồng minh vì Hoa Kỳ đang dịch chuyển sức mạnh quân sự từ Trung Đông sang khu vực Châu Á và Thái Bình Dương. Các chính trị gia Nhật Bản được cử đến Washington, cũng như các đồng nghiệp của họ ở Tokyo, phải biết hơn hết. Tôi tin chắc rằng Nhật Bản không đủ khả năng để vượt qua các nguy cơ phá hoại các mối quan hệ an ninh Mỹ-Nhật Bản đặc biệt là tại một thời điểm khi Nhật Bản đang phải đối mặt với những khó khăn vô vàn bao gồm tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và Hàn Quốc, chưa kể đến Nga.
Người Mỹ đang đặc biệt lo lắng về đề nghị từ bỏ chương trình chu trình nhiên liệu hạt nhân của Nhật Bản. Họ đã có những vấn đề đau đầu riêng của họ về xử lý chất thải hạt nhân do việc dừng dự án kho lưu trữ địa chất tại khu vực núi Yucca (Nevada) trong năm 2010. Cho tới tai nạn Fukushima, người Mỹ dường như quan tâm đến nhà máy Rokkasho như là một mô hình có thể đối với giải pháp cho các vấn đề của riêng mình. Nếu không có giải pháp hiệu quả về nhiên liệu đã qua sử dụng, nhà máy điện hạt nhân không thể tiếp tục hoạt động trong một thời gian dài - tình hình thường được mô tả một cách mỉa mai như 'toire-Naki manshon' (căn nhà không có nhà vệ sinh) bởi các nhà hoạt động chống hạt nhân ở Nhật Bản.
Thiệt hại cho chế độ không phổ biến hạt nhân toàn cầu
Vẫn còn một nguyên nhân khác cho mối quan tâm của Mỹ về chính sách hạt nhân “O%” của Nhật liên quan đến các vấn đề không phổ biến hạt nhân. Nếu Nhật Bản không còn là một quốc gia năng lượng hạt nhân lớn và từ bỏ tình trạng của mình là chủ sở hữu của các công nghệ hạt nhân được coi là một trong số cao nhất trên thế giới hiện nay, NB chắc chắn sẽ mất đi khả năng và uy tín của mình đóng góp cho những nỗ lực quốc tế về không phổ biến hạt nhân theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT).
Hoa Kỳ hiểu hơn hết bất kỳ quốc gia nào khác rằng Nhật Bản, nạn nhân duy nhất của việc thả bom nguyên tử vào năm 1945 và cam kết chắc chắn nghĩa vụ không sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích quân sự, từ lâu đã đóng một vai trò rất quan trọng hàng đầu cho xây dựng cơ chế không phổ biến hạt nhân toàn cầu. Nhật Bản đã giành được uy tín như là một thành viên đáng tin cậy của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), chấp nhận thanh tra/thanh sát 'trong phạm vi đầy đủ“ dựa trên hiệp ước NPT. Tham gia vào sự phát triển hệ thống thanh tra/thanh sát toàn cầu từ những năm 1960, tôi sợ rằng đóng góp có giá trị này của Nhật Bản trong hơn nửa thế kỷ kể từ khi khởi đầu Cơ quan được chú ý ít hoặc không được đánh giá cao bởi những người đồng hương của tôi, ngay cả sinh viên chính trị quốc tế, bởi vì hệ thống này là một lĩnh vực quá phức tạp và chỉ những người thực sự quan tâm mới hiểu được vì vậy mà chỉ có số ít của các chuyên gia có trình độ mới có thể hiểu được đầy đủ và bởi vì tin tức được đưa ra bởi các phương tiện truyền thông địa phương luôn luôn không đầy đủ.
Để hiểu được tính chất nghiêm trọng của vấn đề cụ thể này, chỉ cần tưởng tượng một cảnh trong tương lai, lúc đó các hoạt động năng lượng hạt nhân dân sự được thực hiện bởi chỉ có năm quốc gia tuyên bố có vũ khí hạt nhân và hai quốc gia không tuyên bố - Ấn Độ và Pakistan, cùng với một số lượng gia tăng các quốc gia không có vũ khí hạt nhân, cả phát triển và đang phát triển. Trung Quốc, Nga và Pháp đóng một vai trò thống trị trên thị trường quốc tế như là nhà cung cấp chính về lò phản ứng, nhiên liệu và công nghệ. Nói thẳng ra, ba quốc gia này, đặc biệt là Trung Quốc và Nga, tất cả đều không buộc thực hiện các nghĩa vụ thanh sát của IAEA theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân, rất tích cực trong bán lò phản ứng và công nghệ của họ, thường không đòi hỏi khách hàng của mình chấp nhận các nghĩa vụ nghiêm ngặt dựa trên tiêu chuẩn NPT - IAEA. Việc kinh doanh hạt nhân của Nga với Bắc Triều Tiên và Trung Quốc với Pakistan trong những năm 1970-80 chỉ là một vài ví dụ đó.
Hoa Kỳ lo lắng đúng về khả năng nới lỏng áp dụng các yêu cầu về không phổ biến trong thị trường hạt nhân quốc tế dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của chế độ NPT/IAEA và lan rộng hơn khả năng vũ khí hạt nhân. Là một người ủng hộ trung thành của chế độ nói trên và đóng góp tích cực để tăng cường trong quá khứ, Nhật Bản có thể không bao giờ thờ ơ đến mối quan tâm của Mỹ và các dự đoán của họ.
Tán thành và phản đối kinh doanh lò phản ứng của Nhật Bản ra nước ngoài
Bây giờ, đây lại là vấn đề quan trọng khác thường bị bỏ qua trong các cuộc tranh luận trong nước: tác động tiêu cực đến khả năng và uy tín của Nhật Bản trong xuất khẩu lò phản ứng hạt nhân của riêng mình. Tại thời điểm này, ba nhà sản xuất hạt nhân lớn, Toshiba, Hitachi và Mitsubishi, đang cố gắng để bán sản phẩm của mình được sản xuất bởi công nghệ hàng đầu thế giới của họ một cách độc lập hoặc phối hợp chặt chẽ với các đối tác Mỹ hoặc Pháp như Westinghouse, General Electric hay Areva. Nhật Bản đã có được lời hứa của chính phủ Việt Nam về việc mua hai lò phản ứng hạt nhân Nhật Bản cho MNMĐHN Ninh Thuận II dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào đầu những năm 2020. Thỏa thuận đã được ký kết giữa hai nước vào ngày 31/10/2010, chỉ bốn tháng trước khi tai nạn Fukushima.
Sau tai nạn ngày 11/3, chính phủ Nhật Bản đã buộc phải ngừng tất cả các biện pháp thực hiện các thỏa thuận với Việt Nam dưới áp lực trong nước ngừng xuất khẩu hạt nhân cho Việt Nam và một số nước khác mà Nhật Bản đã và đang đàm phán để ký kết các hiệp định song phương cần thiết đối với xuất khẩu lò phản ứng, mặc dù các thỏa thuận hợp tác đã ký kết với Việt Nam, Jordan, Hàn Quốc và Nga cuối cùng đã được phê duyệt bởi Nghị viện trong tháng 12/2011 và được phê chuẩn sau đó. Dĩ nhiên, chính phủ Việt Nam đã thúc giục Nhật Bản để tiến hành các quy trình cần thiết để xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo kế hoạch ban đầu. Thủ tướng của cả hai nước đã tái khẳng định cam kết của họ để thực hiện đầu của thỏa thuận, nhưng phe đối lập trong nước vẫn còn quyết liệt ngay cả trong nội bộ Đảng Dân chủ cầm quyền. Các nghị sĩ bất đồng chính kiến cho rằng Nhật Bản đang hướng tới '0% hạt nhân' ở trong nước, thì không có lý do nào để xuất khẩu lò phản ứng hạt nhân Nhật Bản ra nước ngoài.
Giấc mơ có thể hoặc không thể trở thành sự thật đối với việc xuất khẩu hạt nhân cho Việt Nam
Gần đây, tuy nhiên, có báo cáo về sự phản đối của địa phương đối với nhà máy điện hạt nhân đang tăng dần tại Việt Nam, đặc biệt là trong Quốc hội. Có lập luận rằng, Việt Nam chưa sẵn sàng, về kinh tế, xã hội và công nghệ, để bắt tay vào dự án với kỹ thuật khổng lồ và phức tạp như xây dựng nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi cả một số lượng lớn các đầu tư ban đầu, và cơ sở hạ tầng pháp lý và xã hội để đảm bảo an toàn hạt nhân và trách nhiệm bồi thường trong trường hợp xảy ra tai nạn nghiêm trọng. Nó cũng có thể bị ngưng lại trong bối cảnh dự án 'Bullet Train' kết nối Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã bị từ chối bởi Quốc hội vào năm 2011 vì là quá sớm đối với một nước nghèo như Việt Nam.
Cá nhân tôi thấy tình hình hiện nay ở Việt Nam rất đáng tiếc, vì tôi đã trải qua hơn ba mươi năm kể từ cuối những năm 1970 trong việc ủng hộ tầm quan trọng của năng lượng hạt nhân dân sự giữa các nước trong khu vực Đông Á bao gồm cả Việt Nam và In-đô-nê-xi-a. Trong suốt nhiệm kỳ tôi là Giám đốc đầu tiên của Vụ Năng lượng hạt nhân của Bộ Ngoại giao (1977-1982) và Giám đốc điều hành Ủy ban Quốc gia về Hội nghị Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) trước APEC (1982-1989), tôi đã liên tục đề xuất việc thành lập ASIATOM, một cơ quan điều phối và thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong khu vực Đông Á trong mối liên hệ chặt chẽ với IAEA. Đề nghị của tôi đã được biết đến rộng rãi trong khu vực và thậm chí được sự ủng hộ nhiệt tình bởi một số các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng ở các quốc gia khác nhau ở châu Á và các nơi khác. Tôi thậm chí đã soạn thảo hiệp ước thành lập ASIATOM và lưu hành tại một số quốc gia dự kiến sẽ tham gia vào cơ quan mới này.
Thật không may, tuy nhiên, đề nghị của tôi không tiến xa hơn sau khi tôi rời Bộ Ngoại giao vào năm 1989. Người kế nhiệm tôi đã chuyển trọng tâm chính sách của họ sang cái khác. Những điều này thường xảy ra trong hệ thống quan liêu ở một đất nước như Nhật Bản.
Rokkasho có thể cung cấp các dịch vụ hữu ích cho Việt Nam và Hàn Quốc
Trong khi tôi có cơ hội để xác định lại khái niệm ban đầu và triết lý cơ bản của ASIATOM mà tôi đề xuất, hãy cho tôi được nói thêm. Mặc dù, các khái niệm cơ bản của ASIATOM đã phần nào trở nên lỗi thời, sau các sự kiện sau đó. Tuy nhiên, một số ý tưởng vẫn còn giá trị và hữu ích, tôi tin là vậy.
Ví dụ, nếu Nhật Bản duy trì nguyên vẹn chương trình chu trình nhiên liệu hạt nhân của mình và nếu Nhật Bản xây dựng một Nhà máy Tái chế thứ hai ở Rokkasho-mura công suất (800 tấn mỗi năm) như đã được hình dung trước tai nạn Fukushima, thì trong tương lai Việt Nam sẽ có thể chuyển nhiên liệu đã qua sử dụng đến xử lý tại Nhật Bản phù hợp với thông lệ quốc tế và thanh sát của IAEA, qua đó giúp giải quyết các vấn đề về quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng. Thực tế, vào thời điểm đó trong tương lai, nhà máy Rokkasho thứ hai, ít nhất một phần của nó, có thể được đặt dưới sự kiểm soát đa phương cũng có thể được gọi là 'Trung tâm vùng về chu trình nhiên liệu hạt nhân ASIATOM ' như hình dung ban đầu.
Tương tự như vậy, các nước châu Á khác đã tham gia vào chương trình hạt nhân dân sự, chẳng hạn như Hàn Quốc hay Đài Loan, cũng có thể có được nhiên liệu đã qua sử dụng của họ được tái chế tại Nhật Bản miễn là họ nhận được sự chấp thuận của Mỹ. Đặc biệt là Hàn Quốc, nước hiện nay đang ở giữa các cuộc đàm phán khó khăn với Hoa Kỳ về vấn đề tái chế, sẽ có thể được hưởng lợi từ các dịch vụ được cung cấp bởi Nhà máy Rokkasho thứ hai dưới ASIATOM. Nếu vấn đề của họ được giải quyết thỏa đáng bằng cách này hay cách khác giữa hai nước liên quan, điều đó là tốt với tôi. Nếu không, một giải pháp khác nào đó sẽ phải được đưa ra trước năm 2014 khi Hiệp định Hàn Quốc-Mỹ hiện nay hết hạn. Cái đã được đề xuất ở trên do đó có thể đảm bảo một xem xét nghiêm túc.
Nhìn xa hơn Fukushima
Ngay sau khi tôi bắt đầu viết bài này, Hạ viện Nhật Bản đã giải tán đột ngột vào ngày 16/11/2012 và cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra vào ngày 16 /12. Năng lượng hạt nhân, là '0%' của DPJ hoặc 'nguyên trạng' của các đảng chính trị ủng hộ khác như các Đảng Dân chủ Tự do (LDP) và người đứng đầu mới của LDP là Shintaro Ishihara, cựu Thống đốc Tokyo, sẽ là một trong những vấn đề chính được tranh cãi trong chiến dịch. Cử tri Nhật Bản cuối cùng có một cơ hội để yêu cầu chính phủ của họ làm những gì họ thực sự muốn nó làm.
Trong khi là quá sớm để dự đoán kết quả của cuộc bầu cử và một chính phủ mới, điều này có thể được nói một cách an toàn vào thời điểm này. Chính sách hạt nhân '0%' cùng với việc từ bỏ chương trình chu trình nhiên liệu hạt nhân, nếu chính thức hóa hoặc hệ thống hóa bởi chính quyền mới sau cuộc bầu cử mở đường hướng tới từ bỏ dần dần và hoàn toàn của Nhật Bản. Nhật Bản sẽ không bao giờ có thể để khôi phục lại vị trí 'số 1” giành được từ rất nhiều công sức trong thời kỳ hậu Thế chiến II.
Tôi, bản chất, không phải là một người bi quan cũng không phải một người gieo hoang mang, nhưng thời gian này tôi rất lo ngại về tương lai của Nhật Bản. Người dân Nhật Bản phải luôn luôn ghi nhớ sự kiện lịch sử mà Nhật Bản đã thành công trong việc khắc phục những thiệt hại to lớn của hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 1970 với sự hỗ trợ của năng lượng hạt nhân, đã cung cấp cho Nhật Bản nguồn điện đủ, đáng tin cậy và tương đối rẻ.
Tất nhiên, chúng ta không được quên cái giá chúng tôi phải trả và sự đau đớn phải chịu sau thảm họa Fukushima. Nhưng chúng ta, những thành viên của xã hội văn minh này, phải có khả năng phân biệt giữa (1) sai lầm con người, phần lớn do một số công ty điện lực và cơ quan quản lý, và (2) tính hữu ích nội tại của năng lượng hạt nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế và thịnh vượng của chúng ta. Năng lượng hạt nhân bản chất không đáng bị khiển trách, trong khi những sai lầm của con người là đáng bị khiển trách và được xử lý nghiêm.
Cái được yêu cầu đôi với người dân Nhật Bản bây giờ là tự giải thoát cho đến khi họ có thể, từ tình trạng chấn thương tâm trí, khôi phục lại sự tự tin và bắt đầu suy nghĩ vượt xa khỏi Fukushima, để họ có thể không bị ảnh hưởng một thảm họa quốc gia khác không nghi ngờ sẽ tàn phá nhiều hơn hơn so với hiện tại.
Nhật Bản không thể từ bỏ chu trình nhiên liệu hạt nhân
TCCT
Giáo sư Kumao Kaneko, Chủ tịch Hội đồng Năng lượng & An ninh Nhật Bản, đã có bài phân tích về tình hình phát triển điện hạt nhân của Nhật Bản sau tai nạn Fukushima, sự phản đối trong và ngoài nước đối