Đến làng Chuông, dù vào mùa làm nón (mùa hè), tôi không bắt gặp cái không khí ồn ào, gấp gáp, sôi động như thường thấy ở một số làng nghề dệt, mộc, sắt, đúc đồng… mà chỉ thấy ẩn hiện trong cái bình yên của làng là màu trắng bạc của những nhà phơi lá nón. Làng Chuông xưa kia được biết đến với những dòng nón cổ như nón quai thao (còn gọi là nón ba tầm), nón ba vòng đấu, nón mười… là thứ nón quý để cung tiến cho hoàng hậu và công chúa. Trải qua thời gian, nón Chuông đã cách tân, nhưng thương hiệu nón làng Chuông vẫn luôn khẳng định chỗ đứng trên thương trường, được rất nhiều người ưa chuộng
Chưa có ai biết được nghề nón của làng Chuông có tự bao giờ, hoặc ông tổ của làng nghề là ai, chỉ biết rằng nghề nón đã có từ vài trăm năm trước. Do điều kiện làng Chuông đất chật người đông, làm ruộng không đủ ăn, nên nghề nón được coi như cứu cánh lúc nông nhàn. Cũng từ đó, chiếc nón đã gắn bó, nuôi sống rất nhiều thế hệ người làng Chuông. Theo các cụ làm nón cao tuổi xã Phương Trung kể lại thì, nón Chuông ngày nay (còn gọi là nón thanh, nón cách tân) đã được cải tiến từ nón Xuân Kiều (còn gọi là nón Ba Đồn) có dáng hơi khum chứ không thẳng vát. Người có công mang chiếc nón Xuân Kiều về cho làng Chuông là cụ Lê Văn Các. Cụ Các năm nay đã ngoài 80 tuổi. Cụ được Tổng đốc Hà Đông - Hoàng Trọng Phu nhận làm con nuôi trong dịp Tổng đốc về Thanh Oai xây dựng làng kiểu mẫu những năm truớc Cách mạng tháng Tám 1945.
Làng Chuông có gần 4.000 hộ thì có đến 90% hộ làm nón. Đã là người làng Chuông thì bất kể là ai, dù trai hay gái, đều phải biết khâu nón (đây là nghề cha truyền con nối). Trẻ con trong làng cứ 6 đến 7 tuổi là đã bắt đầu tập làm nón. Ban đầu tập làm nón dối, sau thành thạo mới làm nón kỹ. Làm nón không mang lại thu nhập cao như một số nghề khác. Mỗi chiếc nón, sau khi trừ nguyên vật liệu, tiền công chỉ được 15 đến 20 nghìn đồng. Người làm nhanh thì mỗi ngày cũng chỉ khâu được 2 chiếc. Thu nhập bình quân của người làm nón một tháng chỉ được 600.000 - 1.000.000 đồng/người. Tuy nghề này không mang lại nhiều lợi nhuận, chỉ chủ yếu lấy công làm lãi, nhưng nhờ làm nón, nhiều người làng Chuông đã nuôi con ăn học thành tài. Nhiều cô gái làng Chuông còn đem theo nghề khi xuất giá như một thứ hồi môn. Nhờ làm nón mà dân làng Chuông luôn có được nguồn thu nhập ổn định, cuộc sống được cải thiện hơn nhiều.
Nói về thương hiệu, nón Chuông đã được biết đến từ rất lâu, như một sự tri ân với những người làm nón tâm huyết yêu nghề, tạo cho nghề của ông cha sức sống bền bỉ qua câu ca dao được truyền tụng trong nhân gian:
Muốn ăn cơm trắng cá Trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông.
Không chỉ nức tiếng trong quá khứ, ngay cả trong thời hiện đại, khi mà thị phần của chiếc nón đã phần nào thu hẹp bởi các loại mũ thời trang, mũ bảo hiểm, thì nón làng Chuông vẫn hiện hữu trong đời sống thường ngày. Ông Khóa, Chủ tịch UBND xã Phương Trung đã tự hào bộc bạch: “hiện tại, nón làng Chuông làm ra bao nhiêu cũng hết”. Ông còn cho biết thêm, người làng Chuông mỗi năm làm ra khoảng 3 đến 4 triệu chiếc nón. Trước đây, các hộ gia đình làm nón thường đi mua nguyên liệu về làm, sau đó đem ra chợ Chuông tiêu thụ. Còn bây giờ, nhu cầu nón Chuông xuất khẩu và khách du lịch tăng lên, nên đã hình thành nhiều doanh nghiệp thu mua nón với số lượng lớn như doanh nghiệp gia đình chị Tạ Thu Hương, hay gia đình ông Lê Văn Tuy. Chiếc nón Chuông bây giờ đã được xuất khẩu sang nhiều nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Không ngừng thay đổi và cải tiến mẫu mã, nón làng Chuông luôn được cách tân, đã có trên 70 kiểu dáng được cải biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng, đặc biệt có những sản phẩm mang thế mạnh như: nón trắng (nón thanh), nón quai thao, nón lá già. Làng Chuông đang chú trọng phục hồi và phát triển các loại hình nón cổ và nón nước ngoài phục vụ khách du lịch như: nón chóp dứa, nón tơi, nón Lâm Sung, nón Thái, nón Hàn Quốc… Ngày xưa, nón chủ yếu được tiêu thụ ở chợ Chuông với 6 phiên chính trong tháng vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24, 30. Vào các phiên chính, chợ Chuông chỉ bán nón và các nguyên vật liệu làm nón, khách về đi chợ rất đông. Ngoài mục đích mua nón và các nguyên liệu làm nón, du khách còn có dịp được tận mắt thấy quy trình làm nón. Hình ảnh màu trắng lấp lóa của nón Chuông luôn là ấn tượng khó quên. Đặc biệt là phiên chợ đầu năm, tổ chức đúng ngày 10 tháng Giêng, thu hút rất nhiều khách thăm quan, mua nón. Đây cũng là dịp người làng Chuông khai chợ và nuôi hy vọng vào một năm mới làm ăn phát đạt, nón sẽ bán được cao hơn.
Nón làng Chuông nhìn rất đơn giản, nhưng để làm ra nó đòi hỏi rất nhiều công đoạn tỉ mỉ. Ở mỗi công đoạn, người thợ phải luôn dồn hết tâm huyết của mình vào đó. Làng Chuông có hai dòng nón chính là nón cổ và nón cách tân. Lá để làm nón cách tân là lá đọi (còn gọi là lá lụi hay lá non được đưa về từ Quảng Bình, Phú Thọ). Còn lá cọ già thì để làm nón quai thao. Vào các phiên chợ Chuông, lá đọi được các gia đình chọn mua về, sau đem vò cát cho cành lá bong tơi xốp, rồi mang phơi nắng cho đến khi thịt lá trong, gân chắc là được. Lá sau khi phơi, người thợ nón dùng lưỡi cày nung nóng, lấy giẻ hơ thật nóng lên lưỡi cày để miết lá. Miết làm sao cho tấm lá thật phẳng, nhẵn mà không bị rách, bị giòn. Công đoạn miết lá quyết định rất nhiều đến chất lượng nón. Điều làm nên điểm khác biệt của nón Chuông, nét đặc trưng không thể lẫn với bất kỳ sản phẩm nón nào khác bởi 16 lớp vòng vừa bền chắc, vừa mềm mại. Khi khâu nón, người thợ xếp lá theo từng vòng nón, ở giữa hai lớp lá là một lớp mo, rồi tỷ mỷ đan chuốt từng bẹ lá, khâu từng mũi chỉ từ vòng trong đến vòng ngoài, đều đặn, mịn chắc. Với hai lớp lá và một lớp mo ở giữa, làm cho nón Chuông có dáng thanh thoát, mái nón quang, đường kim mũi chỉ gọn, lại thẳng hàng, khoảng cách giữa các mũi đều tăm tắp. Mũi thắt của người làng Chuông mau chứ không thưa như nón ở nơi khác, mười sáu vòng nón được bứt rất tròn, không vênh không méo, các đoạn giáp mịn không vấp. Khâu nón đòi hỏi sự chú tâm, khéo léo của người khâu. Công đoạn cạp nón là công đoạn hoàn tất việc khâu. Sau công đoạn này, nón sẽ được trang trí và lồng nhôi nón bằng chỉ màu rực rỡ.
Nói đến nghệ nhân nón Chuông thì không thể không nhắc đến cụ Phạm Trần Canh, nghệ nhân cao tuổi nhất trong làng, đã bước sang tuổi bát tuần. Cụ Canh được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân với sản phẩm nón quai thao. Cụ là một điển hình, nhiều tâm huyết trong việc giữ gìn nghề và truyền nghề cho thế hệ kế cận của làng. Trước nỗi lo thất truyền nghề truyền thống của cha ông, Cụ đã tổ chức nhiều lớp dạy nghề miễn phí, nhằm truyền lại kinh nghiệm cho người dân quanh vùng. Bây giờ tuổi đã cao, sức yếu, nhưng cụ Canh vẫn miệt mài khâu nón với mong muốn duy trì nghề truyền thống của tổ tiên. Theo cụ Canh, làm ra chiếc nón cổ mất rất nhiều thời gian và công sức, đặc biệt, nó đòi hỏi tình yêu nghề và sự kiên nhẫn nhiều hơn chiếc nón thông thường. Để hoàn thành một chiếc nón quai thao phải mất 3 ngày, trải qua 6 công đoạn, cũng tương tự như làm nón thanh, nhưng đòi hỏi cầu kỳ và phức tạp hơn nhiều, mỗi công đoạn có những cái khó khác nhau. Nón càng to, thời gian làm nón càng lâu và công phu, trong khi giá bán chỉ khoảng 50.000đ đến 80.000đ/1 chiếc (tùy kích thước). Do nhu cầu không nhiều, chủ yếu phục vụ cho biểu diễn văn nghệ, trưng bầy, số lượng xuất khẩu lại hạn chế, nên làm nón quai thao ở làng Chuông không được nhiều người lựa chọn. Hiện tại, chỉ còn gia đình cụ Canh và vài hộ là còn làm nón quai thao, còn lại đã chuyển sang làm những thứ khác có thu nhập cao hơn. Không chỉ là Nghệ nhân của nón quai thao, cụ Canh còn góp phần đưa nón làng Chuông - nét đẹp văn hóa của Việt Nam đến với nhiều bàn bè trên thế giới. Năm 2001, Cụ đã khâu 2 chiếc nón quai thao khổng lồ có đường kính 2m (do khách sạn Liên Hoa, Hà Nội đặt mua) đem đi triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ tại Cộng hoà Czech và CHLB Đức. Không phụ người có tâm với nghề, hai chiếc nón đã gây được sự chú ý, ưa thích của bạn bè quốc tế. Bên cạnh chiếc áo dài Việt, nón Chuông đã tham gia vào rất nhiều sự kiện lớn của đất nước như APEC, SEGAME, và nhiều hội chợ quốc tế đã được tổ chức.
Hôm nay tôi đến làng Chuông vào đúng phiên chợ, lại thấy nào là lá nón, vòng nón, cước khâu, các sợi tế, những chồng nón xinh xắn, xếp gọn gẽ trong mỗi gian hàng của các bà, các cô, tấp nập kẻ mua người bán. Nhịp sống của làng Chuông vẫn diễn ra trong từng khoảng sân, trong mỗi góc nhà. Thợ nón vẫn lặng lẽ, chú tâm ngồi thắt nón. Với đặc điểm nghề lấy công làm lãi, rất ít nhà làm nón ở làng Chuông mà giàu được. Tuy nhiên, yêu nón, mặn mà với nghề của cha ông, người làng Chuông hôm nay vẫn tất bật với cái nghề tổ tiên truyền lại. Họ đã và đang tạo nên diện mạo tươi sáng của một làng nghề đã có thương hiệu từ lâu, để rồi, trong mỗi phiên chợ, nón Chuông lại lấp lóa trắng trong nhịp sống nhẫn nại của người làng nghề./.
Xem bài Quạt kẻ Vác - Văn hóa một làng nghề
http://www.tapchicongnghiep.vn/congnghieponline/khuyencong/2009/10/22455.ttvn