Theo Nghị định 99 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, từ ngày 1/1/2011, các cơ sở sản xuất thủy điện phải chi trả tiền dịch vụ về bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất thủy điện. Mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở này là 20 đồng một 1kwh điện thương phẩm.
Các cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch, phải chi trả tiền dịch vụ về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất nước sạch với mức 40 đồng/m3 nước thương phẩm. Cơ sở sản xuất công nghiệp sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước phải trả tiền dịch vụ về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất. Mức chi trả này sẽ do Bộ NN&PTNT phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng quy định.
Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch có hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng sẽ phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng tính bằng 1-2% trên doanh thu thực hiện trong kỳ. Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho nuôi trồng thủy sản. cũng phải trả tiền dịch vụ môi trường.
Trong khi đó, chủ các khu rừng có cung ứng dịch vụ môi trường rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn có hợp đồng nhận khoán bảo vệ rừng ổn định lâu dài với các chủ rừng là tổ chức nhà nước sẽ được trả tiền dịch vụ môi trường rừng. Việc chi trả được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam hoặc Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh.
Sản xuất thủy điện, nước sạch phải trả phí môi trường
TCCT
Từ ngày 1/1/2011, các cơ sở sản xuất thủy điện, nước sạch, công nghiệp, kinh doanh du lịch hưởng lợi từ môi trường rừng... phải chi trả tiền để bảo vệ môi trường. Còn người trồng rừng sẽ nhận được tiề