Thách thức hay là cơ hội cho các doanh nghiệp trong giai đoạn suy thoái kinh tế?

Chấn động từ khủng hoảng tài chính Mỹ đã kéo theo khủng hoảng kinh tế trầm trọng của các nước phát triển và dư chấn của nó gây tác động mạnh mẽ lên sự phát triển kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, tác động khủng hoảng kinh tế không mạnh như các nước phát triển, vì chúng ta không có một định chế tài chính nào cho phép hệ thống tài chính đầu tư vào chứng khoán và bất động sản như tại Mỹ và cũng không nắm giữ cổ phiếu như các ngân hàng đầu tư Mỹ. Mặc dù vậy, một số ngân hàng cũng bị ảnh hưởng gián tiếp. Về cơ bản, hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam sẽ ít chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ cơn bão khủng hoảng tài chính từ Mỹ. Mặt khác, do Việt Nam mới tham gia hội nhập, hàng hóa Việt Nam tham gia thị trường đa phần là hàng giá rẻ, nên khi khủng hoảng tài chính, sức mua giảm đi thì những loại hàng hóa này dễ giữ lại được vị trí của mình.

            Trong lĩnh vực công nghiệp, tác động của khủng hoảng tài chính lên các doanh nghiệp như thế nào, nhất là đối với ngành Cơ khí? Những thách thức và cơ hội nào nào để các doanh nghiệp này phát triển.

            Đầu tiên phải kể đến các doanh nghiệp FDI. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp này đa phần có công ty mẹ tại các nước phát triển, có đến trên 70% sản phẩm dành cho xuất khẩu. Đa số các doanh nghiệp đầu tư đều thu hút nhân công giá rẻ, nên khủng hoảng tài chính đã gây ảnh hưởng khá mạnh tới các doanh nghiệp này, nhiều doanh nghiệp số lao động bị giảm tới 35-50%. Kéo theo đó là các doanh nghiệp vệ tinh cũng phải chịu hệ luỵ và tụt dốc theo. Điển hình là các doanh nghiệp sản xuất ô tô, từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009 liên tục rơi vào cảnh ế ẩm, hàng không tiêu thụ được.

                        Khủng hoảng tài chính không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới quy mô sản xuất các doanh nghiệp FDI mà lớn hơn là giảm đáng kể dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Không ít các khu công nghiệp sẽ bị đóng băng, gây lãng phí nhân lực và tài nguyên đất. Xuất hiện không ít các dự án ảo, lấy dự án đầu tư để vay vốn giải quyết các thâm hụt tài chính và giữ đất. Đây là cơ hội để xem xét, thẩm định lại tính khả thi của các dự án. Dự án nào nên khuyến khích đầu tư, loại bỏ các dự án gây bất ổn về môi trường và xã hội, không có lợi cho sự phát triển kinh tế.

            Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đa số là các cơ sở hoạt  động cung cấp hàng tiêu dùng và hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Các DNNVV mặc dù chiếm một số lượng rất lớn trong cộng đồng doanh nghiệp, nhưng là đối tượng dễ bị "tổn thương" nhất khi kinh tế suy thoái. Khi suy thoái kinh tế, nhiều nhu cầu tiêu dùng giảm, thị trường các doanh nghiệp lớn cũng bị thu hẹp, dẫn đến nhiều DNNVV lâm vào khủng hoảng. Mặt khác, các doanh nghiệp này thường hạn chế về công nghệ, khó tiếp cận với các cơ chế ưu tiên của Nhà nước, thường thiếu vốn và thiếu khả năng tiếp cận với thị trường bên ngoài,  nên các doanh nghiệp này rơi vào tình trạng càng khó khăn hơn. 

            Theo thống kê, hiện có khoảng 7.000 DNNVV lâm vào tình trạng phá sản. Có thể đánh giá là suy thoái đã xảy ra khá nặng nề với các doanh nghiệp này,  nhưng  theo số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện cả nước có tới 349.309 DN có đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký lên đến 1.389.000 tỷ đồng (khoảng 85 tỷ USD). Trong số này, hơn 95% là các DNNVV. Như vậy, con số 7.000 DN trên không phải là tỷ lệ lớn.

            Theo dự báo của Hiệp hội DNNVV về tác động của khủng hoảng kinh tế đối với các DNNVV cho thấy, các doanh nghiệp khó khăn trung bình chiếm khoảng 70%, rất khó khăn chiếm khoảng 20%, số còn lại có thể bị phá sản hoặc đứng trước nguy cơ phá sản. Vậy cơ hội nào cho các doanh nghiệp này? Theo ý kiến một số chuyên gia kinh tế, trong mọi truờng hợp, chúng ta nên nhìn nhận phá sản các doanh nghiệp như một dấu hiệu tích cực về thay đổi quy mô, lĩnh vực hoạt động và đưa ra áp lực nhanh chóng đổi mới công nghệ. Với cộng đồng doanh nghiệp, khi suy thoái kinh tế, để tồn tại, áp lực với các doanh nghiệp phải đầu tư chiều sâu để tăng cường năng lực cạnh tranh, thúc đẩy việc thay đổi mô hình, quy mô sản xuất, cũng như việc phân công hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp để mở rộng thị trường ra nước ngoài, thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, tiếp cận chu kỳ mới của sản phẩm… Phải chăng, đây là điểm yếu các doanh nghiệp Việt Nam và đây là cơ hội thích hợp để các DNNVV quan tâm.

            Các DNNVV cũng có quyền hy vọng vào sự thay đổi nếu có được  sự hỗ trợ từ “gói kích cầu" của Chính phủ (gói kích cầu hiện nay của Việt Nam nếu tính cả khoản tiền năm 2008 chuyển sang và tạm ứng cho năm 2010, các khoản giãn, giảm thuế, các khoản tài trợ lãi suất… có thể lên tới trên 6 tỷ USD, chiếm khoảng 6% GDP, để hỗ trợ phát triển sản xuất đối với các doanh nghiệp). Và khi đó, các biến động đối với các DNNVV sẽ phát triển theo chiều hướng tích cực, giảm bớt sự mất ổn định do làn sóng suy thoái kinh tế gây ra.

      Với các doanh nghiệp lớn (phần lớn là các tổng công ty và các tập đoàn kinh tế) tác động của khủng hoảng kinh tế đã là liều thuốc thức tỉnh để họ xem xét lại hiệu quả đầu tư. Nhiều doanh nghiệp đã vay gấp hàng chục lần vốn chủ sở hữu (các tập đoàn kinh tế quốc tế chỉ vay từ 1 đến 3 lần). Thưc tế, có hai vấn đề: Do đầu tư quá nhiều nên ít quan tâm đến lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, dễ ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả đầu tư. Đồng thời, một số tập đoàn còn đầu tư vào những lĩnh vực mà họ không có khả năng, kinh nghiệm, thì rủi ro rất lớn. Đặc biệt, còn thành lập ra các ngân hàng, các công ty tài chính trực thuộc chính nội bộ của mình, phục vụ cho chính mình, đã vi phạm nguyên tắc hết sức cấm kỵ trong quản trị kinh doanh, quản trị tài chính. Tuy nhiên, các sai lầm trên sẽ được kiểm soát và đánh giá. Chủ trương xem xét lại các dự án, cắt giảm bớt các dự án kém hiệu quả của Chính phủ là cần thiết và kịp thời.

  Những quyết định của Chính phủ mới được ban hành đầu năm 2009, như Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/1/2009 về cơ chế phát triển sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục các dự án đầu tư sản xuất cơ khí trọng điểm giai đoạn 2009-2015; Quyết định số 12/2009/QĐ-TTg ngày 19/1/2009 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội… và Chương trình hành động của các bộ, ngành, đã tạo cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội được tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi, được hưởng các chính sách ưu đãi trong tín dụng đầu tư, chính sách chỉ định thầu, giao thầu, chính sách đầu tư cho nghiên cứu phát triển và các chính sách về thuế để khuyến khích sản xuất các doanh nghiệp và bảo vệ thị trường… Đây là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp ổn định lại tổ chức, phát triển theo chiều sâu, phát triển tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và giành sự quan tâm đầy đủ hơn đến hiệu quả đầu tư, bảo đảm phát triển bền vững lâu dài của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh.