Tháo gỡ khó khăn vay vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Theo khảo sát gần đây của SISME, chỉ có khoảng 32,38% số doanh nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận và được vay vốn thường xuyên, 35,24% phản ánh là khó tiếp cận, số còn lại cho biết không thể tiếp cậ

Đó là thông tin được đưa ra tại hội thảo “Nâng cao khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh Việt Nam hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN 2015” diễn ra ngày 18/11 tại Hà Nội do Viện Nhân lực Ngân hàng Tài chính tổ chức.

Ảnh minh họa

Hiện nay cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động thực tế (trong đó doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 29,6%, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 65,7%) với tổng số vốn đăng ký khoảng 121 tỷ USD, chiếm 30% tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp. Hàng năm, SME đóng góp khoảng 40% GDP, 30% thu nộp Ngân sách Nhà nước, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút 51% lực lượng lao động cả nước.

Những con số này cho thấy vai trò quan trọng của SME trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, SME hiện đang phải trải qua một thời gian khó khăn đầy thách thức đối với nền kinh tế và đối với cộng đồng doanh nghiệp. Các nhu cầu về tiêu dùng sụt giảm trong một thời gian dài, tình trạng nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, và đặc biệt là khó khăn về tiếp cận nguồn vốn và dòng tiền. Hiện nay chỉ có 30% SME tiếp cận được với nguồn vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải tiếp tục sử dụng nguồn vốn tự có hoặc phải vay từ nguồn khác với chi phí rất cao.

Ông Phạm Ngọc Long - Viện trưởng Viện khoa học quản trị Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (SISME) cho biết, về khó khăn tín dụng có 3 yếu tố: Thứ nhất, tỷ lệ tiếp cận vay và vốn vay được còn thấp, tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, tài sản đảm bảo vay khó khăn. Theo khảo sát gần đây của SISME, chỉ có khoảng 32,38% số doanh nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận và được vay vốn thường xuyên; 35,24% phản ánh là khó tiếp cận; số còn lại cho biết không thể tiếp cận được vốn vay. Đối với các kênh huy động vốn khác trên thị trường như phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc tự huy động thì phần lớn SME thường không có đủ điều kiện và uy tín. Tính đến hết tháng 6/2014, tỷ trọng dư nợ khu vực SME chiếm 25% (896,808 ngàn tỷ đồng so với 3,6 triệu tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng tín dụng là 2% so với đầu năm; gần 70% là vay ngắn hạn, gần 90% vay bằng nội tệ; tỷ lệ nợ xấu luôn xu hướng tăng lên (trên 5%). Trong khi đó tổng giá trị tài sản đảm bảo lại tăng, bình quân 7% suốt 3 năm gần đây và tỷ trọng tài sản đảm bảo so với tổng dư nợ tăng đáng kể. Điều này cho thấy mức độ tín nhiệm chung về tín dụng thấp và ràng buộc điều kiện tín dụng cao đối với khu vực này. Tuy vậy, cả về tốc độ, tỷ trọng tín dụng SME đã có dấu hiệu ở xu hướng tăng.

Thứ hai, tỷ lệ tiếp cận và được bảo lãnh rất thấp, tỷ lệ rủi ro về bảo lãnh cao. Cụ thể, tỷ lệ SME được bảo lãnh vay vốn từ Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) vẫn thấp cả về số lượng cũng như giá trị bảo lãnh. Tỷ lệ rủi ro bảo lãnh cao 26,96%. Tỷ lệ chối trả thay của VDB cũng khá cao 18,63%. Đây là nguyên nhân chính khiến các SME tiếp cận tín dụng của các ngân hàng thương mại thông qua bảo lãnh của VDB ngày càng hạn chế.

Thứ ba, tái cơ cấu nợ và điều chỉnh giảm lãi vay còn chậm. Báo cáo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại cuộc gặp Thủ tướng đối thoại doanh nghiệp ngày 28/4/2014 cho thấy, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm tới 70% so với tháng 11/2012, trong khi đó mức lãi suất cho vay từ 13% trở lên chỉ chiếm khoảng 16,5%, tương ứng trên 15% chiếm khoảng 5%, gần 80% đã giảm còn 9-12% (tùy kỳ hạn). Dư nợ của SME có lãi suất trên 15% chiếm 4,5% tổng dư nợ của nền kinh tế (chiếm 18% tổng dư nợ khu vực này); lãi suất từ 13% trở lên chiếm 12,9%... Đến đầu tháng 10/2014, các lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu, SME, công nghiệp hỗ trợ được vay lãi suất 7-8%, sản xuất kinh doanh thông thường 9-10% (ngắn hạn) và 10,5-12%/năm (trung dài hạn); đối tượng VIP chỉ 6-7%.

Ông Long cho rằng, việc tiếp cận vay vốn đối với số doanh nghiệp chưa được tái cơ cấu hoặc tái cơ cấu theo Thông tư 09 là rất khó khăn, càng khó tiếp cận vay với mức lãi suất ưu đãi như kỳ vọng. Hơn nữa, phần lớn SME khó có tỷ suất lợi nhuận cao trên 10% để chịu nổi mặt bằng lãi suất hiện nay, tồn kho có giảm nhưng vẫn còn cao, tiêu thụ khó khăn, nhiều lĩnh vực, ngành hàng vẫn lỗ nặng nếu cứ tiếp tục kinh doanh. Đặc biệt, doanh nghiệp vẫn rất khó khăn khi tiếp cận vốn vay mới vì phần lớn tài sản đảm bảo đã cạn kiệt, tổng tài sản có sinh lời và doanh thu sụt giảm, quy mô thu hẹp…

Khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng tại sao?

Về nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự việc, ông Long cho biết có 3 nguyên nhân. Thứ nhất, sự lúng túng, chậm trễ tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và cải cách thể chế. Thứ hai, khu vực SME nhìn chung trong vòng 5 năm gần đây so với một số loại hình doanh nghiệp khác, dần yếu kém về chất lượng và thua kém về năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Thứ ba, việc chậm trễ tháo gỡ các khó khăn chủ yếu của SME về thị trường, đất đai, vốn hoạt động, công nghệ, đào tạo và quản lý là trở lại có tính chất dây truyền cho việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân trực tiếp như: Các ngân hàng thương mại quá thận trọng, co cụm, có phần bảo thủ và e ngại “hình sự hóa” trong hoạt động tín dụng; Thủ tục, điều kiện tín dụng mới “siết chặt” trở nên phức tạp và quá sức đối với doanh nghiệp; Chính sách tín dụng của hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay quá bó hẹp với số khách hàng “truyền thống”, khách hàng VIP, nên thường xem nhẹ và “làm ngơ” doanh nghiệp mới khởi nghiệp, doanh nghiệp thuộc dạng khoa học công nghệ...; Chính sách mới về bảo lãnh tín dụng cho SME mặc dù được Chính phủ ban hành, chỉ đạo đã lâu nhưng chậm đưa vào cuộc sống; Mặt bằng lãi suất chung có giảm nhưng vẫn còn cao so với khả năng sinh lời của doanh nghiệp, gánh nặng lãi suất nợ cũ cao chưa được miễn giảm phù hợp; Sự phối hợp về chính sách hỗ trợ phát triển của SME giữa các bộ ngành còn chưa ăn khớp, thiếu đồng bộ; Hoạt động trợ giúp phát triển khu vực SME từ nhiều phía trung ương, địa phương còn chưa hiệu quả.

Từ góc nhìn của người làm ngân hàng, ông Trần Trung Kiên – Phó Giám đốc Khối Khách hàng doanh nghiệp phụ trách miền Bắc, Ngân hàng Techcombank cho biết: Trong hơn 20 năm phục vụ khách hàng doanh nghiệp ở các quy mô khác nhau, Techcombank đã gặp những khó khăn nhất định khi cho SME vay như: ngân hàng thiếu nguồn vốn trung và dài hạn ổn định và giá cả hợp lý để đáp ứng theo nhu cầu của SME (vay vốn thời gian dài, lãi suất ưu đãi ổn định…); Tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh trong quá khứ khi cho vay SME cao hơn so với các phân khúc cho vay doanh nghiệp lớn; Khai thác và bán chéo với các SME thường hạn chế do các doanh nghiệp này chỉ có nhu cầu vay vốn và giao dịch tài khoản; Thiếu công cụ hỗ trợ của nhà nước để thúc đẩy ngân hàng có chính sách cho vay cũng như hỗ trợ mạnh hơn các SME.

Ngoài ra, ông Kiên cho rằng còn có những nguyên nhân từ chính các doanh nghiệp như: tính minh bạch của thông tin tài chính doanh nghiệp; kinh nghiệm và cách thức điều hành doanh nghiệp; tính rủi ro của các phương án vay vốn; tài sản đảm bảo đáp ứng điều kiện đảm bảo của ngân hàng;...

Giải pháp…

Từ những nguyên nhân trên, các chuyên gia đã đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng khó vay vốn của SME như: hỗ trợ SME các vấn đề liên quan thị trường, đất đai, vốn ưu đãi, công nghệ, đào tạo và quản lý trên nền tảng đẩy nhanh tiến trình cải cách thể chế, minh bạch hóa thông tin, tháo gỡ các rào cản về thủ tục hành chính và sự “sàng lọc” mạnh doanh nghiệp; Đổi mới cách thức tiếp cận phù hợp hơn trong hoạt động tín dụng và bảo lãnh tín dụng ngân hàng theo hướng tập trung trọng tâm, trọng điểm; Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực SME đặt trong quan hệ gắn bó hữu cơ giữa huy động, tập trung có hiệu quả mọi nguồn lực tài chính với chi phí hợp lý, từng bước thiết lập các định chế, thể chế tài chính đặc thù; Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững, không tăng gánh nặng rủi ro cho các ngân hàng thương mại, phát huy mô hình “cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc với ngân hàng”.

Ngoài ra, để nâng cao khả năng tiếp cận vốn của mình, các chủ doanh nghiệp nên nâng cao tính minh bạch trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; cởi mở với ngân hàng các thông tin về doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp; cam kết của chủ doanh nghiệp trong việc thực hiện các phương án kinh doanh và vay vốn (vốn tự có tham gia, tài sản bảo lãnh của chủ doanh nghiệp…); tìm hiểu kỹ về các sản phẩm, dịch vụ, nơi giao dịch của ngân hàng trước khi đề nghị vay; tham gia vào các chuỗi tài trợ của ngân hàng.

Ngoài các ngân hàng, doanh nghiệp có thể tìm đến các quỹ hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để vay vốn như: Quỹ Khoa học Công nghệ, Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của các tỉnh...

Thanh Tâm