Trung Quốc đưa ra Dự thảo quản lý chất lượng than nhập khẩu

Trong tháng 5/2013, Cơ quan năng lượng Quốc gia Trung Quốc đã đưa ra “Biện pháp quản lý tạm thời đối với chất lượng than thương phẩm (bản dự thảo lấy ý kiến)”. Bản Dự thảo liên quan đến các nội dung n

Theo đó, Điều 5 của Dự thảo đưa ra yêu cầu về chất lượng than thương phẩm như sau: Đối với than cốc: A≤12,Mt≤12, S≤1.75; Đối với than bùn: Q ≥2870 kcal,A≤40,Mt≤40S≤3. Điều 6 đưa ra yêu cầu về chất lượng đối với than vận chuyển xa và nhập khẩu dùng cho nhiệt điện: S≤1,A≤25,Q≥4544 kcal. Điều 8 yêu cầu doanh nghiệp căn cứ vào các điều kiện như: Vốn đăng ký trên 50 triệu NDT, lượng giao dịch than trong 3 năm gần đây đạt trên 1 triệu tấn.

Hiện nay, khu vực Đông Bắc (Trung Quốc) tập trung than cốc chủ yếu tại Hắc Long Giang, hàm lượng lưu huỳnh trong than thấp. Hàm lượng lưu huỳnh trong than tại khu vực Đông Bắc khoảng 0.5%. Hàm lượng trong than thô tại khu vực Hoa Bắc (Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Thiểm Tây, Nội Mông, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy) bình quân ở mức 0.8% - 1.2%, tại khu vực Hoa Nam (Quý Châu, Giang Tây, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam) bình quân ở mức 2.5%, mức bình quân tại khu vực Tây Bắc thấp hơn 1.2%. Như vậy, hàm lượng lưu huỳnh chứa trong than tại một số khu vực trên của Trung Quốc tuy không đảm bảo yêu cầu trong chính sách đưa ra nhưng có thể giải quyết thông qua kỹ thuật tuyển rửa và phối hợp với các loại than khác. Ngoài ra, sản lượng than bùn của Trung Quốc tập trung chủ yếu tại các địa phương như Nội Mông, Vân Nam, 3 tỉnh Đông Bắc, Sơn Đông, Quảng Tây, trong đó, nhiều nhất là tại Nội Mông.

Than dùng trong nhiệt điện nhập khẩu của Trung Quốc chủ yếu đến từ các nước như Indonesia, Australia, Nam Phi và Mỹ. Biện pháp quản lý chất lượng than thương phẩm đã đưa ra những hạn chế nhất định đối với than nhập khẩu, chủ yếu tập trung đến than bùn nhiệt lượng thấp của Indonesia, trong khi đó, lượng than bùn nhiệt lượng thấp này có tỷ lệ tương đối lớn cả về sản lượng cũng như lượng than xuất khẩu vào Trung Quốc. Do đó, việc thực hiện Dự thảo sẽ ảnh hưởng tương đối mạnh tới các doanh nghiệp than của Indonesia.

Theo số liệu thống kê, than của Indonesia có độ ẩm cao, độ tro thấp, hàm lượng lưu huỳnh thấp, nhiệt lượng thấp… nhưng do có ưu thế về giá nên loại than nhập khẩu này vẫn được sử dụng cùng với loại than có nhiệt lượng cao của Trung Quốc, đặc biệt là nhà máy điện tại Hoa Nam và Hoa Đông. Trong 4 tháng đầu năm 2013, tổng lượng than nhập khẩu của Trung Quốc là 23.5 triệu tấn, chiếm 12.56% sản lượng than thô của Trung Quốc; chỉ tính riêng trong tháng 4/2013, lượng than bùn nhập khẩu đạt 5.19 triệu tấn, chiếm khoảng 20% sản lượng; trong đó, lượng than bùn nhập khẩu từ Indonesia chiếm tới 99.86% tổng lượng than bùn nhập khẩu.

Thu Trang (Theo sxcoal.com)