Trong 35 năm qua, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển của Việt Nam ở nhiều khía cạnh như thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hội nhập, bổ sung nguồn vốn đầu tư cho toàn nền kinh tế và đóng góp vào ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, thúc đẩy ngoại thương... Kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo là có tác động mạnh mẽ tới hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội của nhân loại, trong đó có hoạt động thu hút FDI.
Lợi thế cạnh tranh hiện tại của Việt Nam trong thu hút FDI
Kể từ khi mở cửa tiếp nhận nguồn vốn FDI đến nay, Việt Nam ngày càng chứng tỏ sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài so với các quốc gia trong khu vực. Trong năm 2021, mặc dù dịch Covid -19 đang diễn biến phức tạp nhưng vốn FDI vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư Việt Nam. Vốn đầu tư đăng ký mới và điều chỉnh đều tăng so với năm 2020, đặc biệt vốn điều chỉnh tăng mạnh tới 40,5%.
Trước đó, Báo cáo đầu tư 2021 của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) cho thấy với số vốn FDI 16 tỉ USD năm 2020, Việt Nam lần đầu tiên lọt danh sách 20 nước thu hút FDI nhiều nhất thế giới. Việt Nam nắm giữ vị thế dẫn đầu trong cuộc đua giành FDI với các đối thủ tiềm năng như: Trung Quốc, Indonesia; Ấn Độ, Mexico.
Việt Nam cũng là một trong các trung tâm đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc trong bối cảnh các doanh nghiệp trên thế giới đang đẩy nhanh quá trình đa dạng chuỗi cung ứng. Việt Nam cũng được đánh giá còn nhiều dư địa để cạnh tranh nguồn vốn FDI trong xu hướng chuyển dịch sản xuất toàn cầu hiện nay với các đối thủ lớn khác, điển hình như Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý nữa là so với một số quốc gia trong khu vực thì tỉ lệ dòng vốn FDI đến từ ngoài khu vực ASEAN của Việt Nam những năm gần đây cao hơn hẳn.
Điều này cho thấy mức độ đa dạng về nguồn gốc của các nhà đầu tư đến từ các khu vực, châu lục khác. Những thành tựu đáng kể trên trong thu hút FDI so với các quốc gia trong khu vực dựa trên các lợi thế cạnh tranh chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất là lợi thế về chi phí lao động thấp và lực lượng lao động dồi dào: Dân số của Việt Nam năm 2021 là hơn 99,2 triệu người, và đang trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng" khi có tới 69% dân số trong tuổi lao động. Việt Nam là nước có nguồn lao động đông đảo thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines).
Ngoài lợi thế về quy mô, mức lương bình quân trên 1 lao động còn khá thấp được xem là lý do quan trọng hàng đầu trong việc thu hút các doanh nghiệp FDI lựa chọn đầu tư vào Việt Nam thay vì các quốc gia khác trong khu vực. So với các quốc gia còn lại trong nhóm “con hổ châu Á” (Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines và Việt Nam), Việt Nam có mức lương bình quân cho công nhân thấp nhất. Như vậy, trong việc cạnh tranh về thu hút FDI đối với các ngành thâm dụng lao động như như dệt may, lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến thực phẩm – đồ uống... Việt Nam rõ ràng có lợi thế so với các nước trong nhóm về nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp.
Ngoài nhóm “con hổ châu Á”, trước đây Việt Nam còn phải cạnh tranh với Trung Quốc trong việc thu hút FDI vào phân khúc các ngành thâm dụng lao động song hiện nay do mức lương của công nhân Trung Quốc tăng lên nhanh chóng nên đã giảm sức hút đáng kể đối với các nhà đầu tư FDI. Tuy nhiên, thay vào Trung Quốc, Việt Nam hiện đang phải cạnh tranh với một số quốc gia khác trong ASEAN (như Myanmar, Campuchia) và các quốc gia Nam Á (Ấn Độ, Bangladesh) trong việc thu hút FDI ở nhóm các ngành này.
Thứ hai là lợi thế về thị trường tiêu thụ, với quy mô dân số đạt gần 100 triệu người, Việt Nam được xem là thị trường tiêu thụ quan trọng trong chiến lược mở rộng phát triển của các tập đoàn hàng đầu thế giới. Quy mô thị trường có xu hướng mở rộng nhanh chóng do mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, đặc biệt là sự gia tăng tầng lớp trung lưu. Bởi vậy, bên cạnh nhu cầu cao đối với các loại hàng hóa tiêu dùng truyền thống như thực phẩm, đồ uống, vật liệu xây dựng, hàng gia dụng... thì nhu cầu về các loại hàng hóa, dịch vụ mới cũng có sức hút rất lớn đối với các nhà đầu tư FDI như bất động sản, dịch vụ lưu trú và ăn uống, giáo dục, bán buôn và bán lẻ.
Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có quy mô dân số chỉ đứng sau Indonesia và Philippines và có quy mô vượt trội so với các nước còn lại nên trong phân khúc các ngành phát triển dựa vào thị trường nội địa kể trên, Việt Nam có ưu thế khá rõ nét. Bên cạnh sức hút từ thị trường nội địa, các doanh nghiệp FDI trên lãnh thổ Việt Nam cũng dễ dàng tiếp cận với các thị trường thị trường đông dân như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á.
Ngoài các lợi thế khá rõ nét về nguồn lao động và thị trường, năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút FDI với các quốc gia trong khu vực còn được tăng cường đáng kể từ những thuận lợi của các nhân tố về môi trường chính trị ổn định, vị trí địa lý, chính sách ưu đãi đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Một số điểm yếu của Việt Nam trong cạnh tranh thu hút FDI
Bên cạnh các thế mạnh trên, xem xét dưới góc độ cạnh tranh thu hút FDI với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam có một số hạn chế nổi bật sau:
Trước hết là hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Năng suất lao động có vai trò quyết định hiệu quả sản xuất và được xem là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu để đánh giá chất lượng nguồn lao động song xét về chỉ tiêu này Việt Nam có sự thua kém đáng kể so với các nước xung quanh.
Cụ thể, năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 tính theo giá so sánh năm 2010 chỉ tăng 5,4% (so với mức tăng 6,2% năm 2019 và ở mức thấp nhất trong 5 năm gần đây), đạt mức 117,94 triệu đồng/lao động theo giá hiện hành (tương đương 5.081 USD/lao động). Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là 5,11%, cao hơn mức trung bình của ASEAN (3,11%) và cao hơn hầu hết các quốc gia ASEAN.
Tuy nhiên, tốc độ này vẫn thấp hơn mức tăng của Trung Quốc (7%) và Ấn Độ (6%). Việt Nam cũng chưa theo kịp để có thể thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác. Cụ thể, theo ước tính của ILO, năng năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan, 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.
Chất lượng nguồn lao động thấp làm giảm đáng kể sức cạnh tranh trong thu hút FDI Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện rất chậm và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân trên 1 lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động ở nhiều thời điểm. Ngoài ra, điều này tạo thành vòng luẩn quẩn trong việc khai thác nguồn nhân lực ở Việt Nam: Thiếu lao động chất lượng cao các doanh nghiệp FDI tập trung đầu tư vào các lĩnh vực thâm dụng lao động giá rẻ người lao động thấy có nhiều cơ hội việc làm không cần qua đào tạo nên ít quan tâm học tập nâng cao trình độ tay nghề, các cơ sở đào tạo không chịu sức ép để nâng cao chất lượng đào tạo thiếu lao động chất lượng cao. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam chỉ có thể thực sự thoát khỏi vòng luẩn quẩn trên nhờ những đột phá trong giáo dục đi đôi với những định hướng hợp lý hơn trong thu hút FDI.
Thứ hai, chất lượng thể chế và kết cấu hạ tầng cũng là một trong những trở ngại của Việt Nam trong cuộc cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực về thu hút FDI. Những hạn chế nổi bật thường được các nhà đầu tư FDI nêu ra như khả năng đáp ứng về kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, logistic), các chi phí thiếu minh bạch khác...
Đơn cử, đối với vấn đề giao vận, chi phí logisitics tại Việt Nam được nhận định còn ở mức quá cao. Dữ liệu thống kê của đơn vị nghiên cứu thị trường Armstrong & Associates (Mỹ), cho thấy mặc dù Việt Nam có hơn 4.000 doanh nghiệp logistics đang hoạt động, chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam tương đương 20,9% GDP, cao hơn nhiều các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, và cao gấp gần 2 lần các nước phát triển, cao hơn mức bình quân toàn cầu là 14%. Trong cơ cấu chi phí logistic tại Việt Nam, chi phí vận tải lên đến 30-40% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này chỉ khoảng 15% ở các quốc gia khác. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hoá của các doanh nghiệp nói riêng, khả năng cạnh tranh thu hút đầu tư của quốc gia nói chung.
Mặc dù Chính phủ Việt Nam cũng như các địa phương tiếp nhận FDI đã có nhiều hành động nhằm gỡ bỏ dần các rào cản trên song trên thực tế đây vẫn là trở ngại đáng kể ở nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương.
Đánh giá các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ có tác động sâu rộng tới sự phát triển của nhân loại, trong đó có hoạt động đầu tư FDI do nó có ảnh hưởng tới năng lực huy động vốn, cơ cấu ngành kinh tế, năng lực vận tải, truyền thông tin,... Các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 cần được đánh giá so với 02 nhóm đối tượng: (1) các đối thủ truyền thống trong khu vực và (2) các quốc gia nguồn gốc đầu tư (original countries) FDI trong xu hướng quay trở lại quốc gia nguồn gốc (gọi tắt là xu hướng backshoring) của các nhà đầu tư FDI dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút FDI từ các quốc gia này.
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với các đối thủ truyền thống trong khu vực:
Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động mạnh mẽ theo hướng làm mờ nhạt hoặc đậm nét hơn các lợi thế hiện có của Việt Nam trong thu hút FDI. Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với các lợi thế cơ bản của Việt Nam bao gồm:
Trước hết, lợi thế về nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp hiện nay của Việt Nam dự báo sẽ bị tác động rõ nét của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tác động bao trùm của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với vấn đề việc làm là giảm nhu cầu đối với lao động giản đơn (do các xu hướng sử dụng phổ biến công nghệ tự động hóa, robot ở tương lai) và đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực cao hơn để có thể phối hợp sử dụng các thiết bị thông minh trong sản xuất. Sự cạnh tranh về việc làm không chỉ giữa con người với con người mà còn diễn ra giữa con người và máy móc. Các dự báo trên thế giới đều chỉ ra rằng số lượng công việc giản đơn sẽ giảm nhanh chóng, thay vào đó là những công việc đòi hỏi kỹ năng phức tạp hơn.
Xét trong tương lai gần (khoảng 10 – 15 năm tới) Việt Nam vẫn duy trì được lợi thế về nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp do khả năng áp dụng tự động hóa, robot ở một số lĩnh vực còn hạn chế vì thế vẫn cần sức lao động thủ công (như lắp ráp linh kiện điện tử, may mặc...). Thêm vào đó, giá nhân công ở Việt Nam vẫn sẽ rẻ ương đối so với các quốc gia trong khu vực (do khoảng cách chênh lệch còn đáng kể và không dễ gì thu hẹp trong giai đoạn ngắn). Tuy vậy, với tốc độ phát triển, lan tỏa nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp 4.0, lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá rẻ của Việt Nam sẽ biến mất dần do khả năng máy móc thay thế và nhu cầu đối với lao động chất lượng cao trong tương lai xa (trên 15 năm).
Thứ hai, lợi thế về quy mô thị trường nội địa của Việt Nam hiện nay dự báo vẫn sẽ được phát huy trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0. Với quy mô dân số đông và tốc độ tăng trưởng về thu nhập bình quân đầu người ở mức khá cao, thị trường tiêu thụ Việt Nam có xu hướng ngày càng mở rộng đối với cả 02 nhóm hàng hóa, dịch vụ: (1) các trang thiết bị hạ tầng cơ sở cho Cách mạng công nghiệp 4.0 (smart phone, công nghệ viễn thông, ...) và (2) các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ứng dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 (robot, dịch vụ ăn uống, vận tải...).
Ngoài ra, triển vọng tiếp thu trực tiếp thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, bỏ qua một số ứng dụng của Cách mạng công nghiệp 3.0 mà Việt Nam chưa kịp ứng dụng và mức sống còn ở mức trung bình thấp của Việt Nam hiện nay cũng cần được xem là lực hút đối với các nhà đầu tư FDI ở nhiều lĩnh vực. Thị trường khu vực lân cận của Việt Nam được dự báo cũng có xu hướng mở rộng không chỉ do tác động của các yếu tố về năng lực sản xuất và chính sách ngoại thương mà được dự báo còn bởi tác động đáng kể của Cách mạng công nghiệp 4.0: Việt Nam có lợi thế ban đầu về quy mô thị trường, lao động đồng thời có vị trí địa chính trị quan trọng so với một số nước trong khu vực (Campuchia, Myanmar, Lào) nên có thể được các nhà đầu tư FDI, nhất là đầu tư về hạ tầng ứng dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 chọn là 1 trung tâm đồng thời là một cửa ngõ (Hub) về dữ liệu, thông tin của khu vực.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 ảnh hưởng của yếu tố không gian thực sẽ bị làm mờ nhạt bởi không gian ảo tuy vậy vị trí địa lý của Việt Nam vẫn sẽ là một lợi thế cạnh tranh đáng kể bởi tính chuyên môn hóa trong sản xuất, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa vẫn có sự chênh lệch giữa các quốc gia. Cần thấy rằng dù mức độ lan tỏa của không gian ảo gia tăng song thị trường tiêu thụ các loại hàng hóa vật chất vẫn không ngừng gia tăng vì thế các nước có vị trí thuận lợi cho thương mại quốc tế như Việt Nam vẫn là cực thu hút FDI của khu vực. Thêm vào đó, Việt Nam có lợi thế nổi bật trong sản xuất nông sản nhiệt đới và khoảng cách vận chuyển nguyên liệu thô, sơ chế như hiện nay từ Việt Nam tới các thị trường Bắc Mỹ, EU là khá xa. Vì vậy, việc đầu tư trực tiếp các dự án chế biến tại vùng nguyên liệu được dự báo sẽ là xu hướng lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất.
Bên cạnh các lợi thế trên, năng lực cạnh tranh thu hút FDI của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 bị suy giảm đáng kể bởi những yếu tố chính sau:
Thứ nhất, thể chế được dự báo vẫn sẽ là một trở ngại do có nhiều yếu tố trong thể chế rất khó thay thế hoàn toàn bằng máy móc, công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 (như công tác xây dựng chính sách, pháp luật, năng lực quản lý, giám sát...). Tuy nhiên, dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 (ứng dụng các tính năng của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong phân tích thông tin và ra quyết định, ứng dụng các công nghệ mới trong quản lý, giám sát...) và quyết tâm đổi mới của Chính phủ, tính minh bạch, tính mở hướng đến chuẩn mực toàn cầu về thể chế sẽ ngày càng được hoàn thiện. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư FDI và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực vẫn là trở ngại của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 bởi khoảng cách về chất lượng nguồn lao động của Việt Nam so với nhiều quốc gia trong khu vực thậm chí có nguy cơ ngày càng tăng bởi trình độ, khả năng ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi rất nhanh năng suất lao động. Chất lượng nguồn lao động Việt Nam được dự báo sẽ cải thiện nhờ vào cải cách trong giáo dục, sức ép phải chuyển đổi để cạnh tranh với nhân lực trong khu vực vì với công nghệ mới của Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều hoạt động kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam có thể được thực hiện bởi công dân của quốc gia khác.
Thứ ba là hạn chế về tài chính và hạ tầng cơ sở cho Cách mạng công nghiệp 4.0. So với một số quốc gia trong khu vực như Singapore,Thái Lan, Malaysia, Indonesia, tiềm lực tài chính cho thiết lập hạ tầng cơ sở, nhân lực để tiếp nhận Cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam còn hạn chế như giá internet còn cao, hệ thống dữ liệu số quốc gia còn khá sơ sài và thiếu đồng bộ... Tuy vậy, ở một góc độ nhất định, các hạn chế về tài chính, hạ tầng cơ sở cho Cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam lại tạo dư địa cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực này.
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong xu thế backshoring:
Theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp, lý do các nhà đầu tư lựa chọn backshoring là do chiến lược phát triển của họ không phù hợp với chiến lược phát triển của nước tiếp nhận FDI, vấn đề chất lượng sản phẩm khi sản xuất ở nước ngoài, đòi hỏi của người tiêu dùng trong nước về thời gian giao hàng và mẫu mã sản phẩm, chi phí nhân công ở các nước tiếp nhận FDI tăng.
Xu thế backshoring có triển vọng diễn ra mạnh mẽ hơn nữa trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Xu thế backshoring là sự thay đổi vị trí của các doanh nghiệp trước đây từng tiến hành hoạt động đầu tư ở nước ngoài quay trở lại đầu tư ở nước bản địa. Xu thế backshoring chủ yếu xuất phát từ 02 lý do chính sau: (1) ưu thế về lao động giá rẻ của các quốc gia đang phát triển nhận FDI hiện nay sẽ giảm dần, cùng với đó khả năng áp dụng tức thì các ứng dụng CMCN 4.0 ở các nước phát triển có nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ thuận lợi hơn; (2) việc sản xuất ở các nước phát triển sẽ đạt hiệu quả cao hơn do áp dụng công nghệ tự động hóa, robot (thay vì sử dụng nhiều lao động ở các nước đang phát triển tiếp nhận FDI) và tiện đáp ứng nhu cầu của thị trường nước đó (giảm chi phí vận chuyển, đảm bảo quy trình kiểm định chất lượng...).
Trong việc cạnh tranh thu hút nguồn vốn FDI với các nước đi đầu tư, Việt Nam có các lợi thế cơ bản sau:
Thị trường tiêu thụ là lợi thế quan trọng nhất: với quy mô dân số đông và nằm trong (hoặc gần) 3 trong số 4 khu vực đông dân nhất thế giới (Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á) nên nhu cầu về tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, nhất là các sản phẩm thiết yếu và đòi hỏi tính địa lý trong phân bố như thực phẩm, đồ uống, du lịch,... rất lớn. Đối với những nhóm sản phẩm này, dù trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0 và xu thế backshoring tác động, vẫn cần phân bố tại nơi có thị trường tiêu thụ để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Thêm vào đó, các lợi thế về nguồn nguyên liệu tại chỗ và mức độ thuận lợi trong tiếp cận các thị trường lân cận thì Việt Nam rõ ràng có lợi thế hơn trong việc thu hút các nhà đầu tư từ EU, Bắc Mỹ, Tây Nam Á so với việc trở về nước đi đầu tư.
Các ưu đãi về thuế và giá thuê mặt bằng... của Việt Nam cũng là một lợi thế cạnh tranh so với các nước phát triển đi đầu tư. Thêm vào đó, dù chịu tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 song lý thuyết về lợi thế so sánh vẫn sẽ đúng: các nước phát triển (hiện đang chiếm phần lớn các doanh nghiệp có xu hướng backshoring) sẽ lựa chọn sản xuất các mặt hàng hoặc các khâu đem lại giá trị gia tăng cao trong khi các nước có trình độ phát triển thấp hơn (trong tương lai gần) như Việt Nam sẽ vẫn phải đảm nhận việc sản xuất các mặt hàng hoặc các khâu đem lại giá trị gia tăng thấp hơn.
Một số gợi ý chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh
Qua phân tích trên, để nâng cao vị thế cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và cả các nước phát triển khác cần thực thi đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các nhóm chính sách sau:
Thứ nhất, nhóm các chính sách nhằm giải quyết điểm nghẽn về thể chế: bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cần có cải cách về thể chế nói chung và các vấn đề về thể chế có liên quan trực tiếp đến thu hút FDI nói riêng. Quan điểm tiếp cận chủ đạo đối với những thay đổi về thể chế này là phù hợp với những tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, khai thác tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và hướng đến chuẩn mực quốc tế. Cụ thể:
- Việc hoàn thiện thể chế trong công tác quản lý FDI hướng tới chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 cần tiến hành theo các hướng: (1) tăng cường ứng dụng các thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 trong quản lý, đặc biệt là các ứng dụng về quản lý dữ liệu, không gian (đảm bảo thực hiện đúng quy hoạch, quản lý tác động đến môi trường...) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhờ tiết kiệm thời gian, các chi phí tiêu cực phát sinh; (2) cập nhật kịp thời các thay đổi về công nghệ ở các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động FDI trong CMCN 4.0 (ví dụ tác động của công nghệ sản xuất, kinh doanh mới đến môi trường tự nhiên, văn hóa,... của Việt Nam) nhằm có các phản ứng phù hợp theo nguyên tắc chỉ can thiệp bằng chính sách, quản lý hành chính khi các hoạt động đó phương hại đến lợi ích của cộng đồng và quốc gia.
- Các hình thức xúc tiến đầu tư cần có sự thay đổi mạnh mẽ trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 bởi việc truyền dẫn thông tin, dữ liệu xuyên quốc gia trở nên đơn giản. Chính vì thế, cần có chính sách thúc đẩy các hình thức xúc tiến đầu tư hiện đại, có tính lan tỏa cao với các nhà đầu tư nước ngoài như ứng dụng webGIS.
Lợi thế của việc ứng dụng webGIS so với cách quảng bá thông tin truyền thống (qua website, hội nghị xúc tiến đầu tư ...) là: (1) Giúp nhà đầu tư FDI sẽ dễ dàng tìm kiếm được các thông tin ban đầu về lãnh thổ hoặc lĩnh vực mà mình quan tâm đầu tư từ webGIS như vị trí địa lý, khả năng kết nối với thị trường, hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng kết cấu hạ tầng, phân bố dân cư – lao động,.... Ngoài ra, các thông tin khác về hiện trạng đầu tư, các ngành ưu tiên đầu tư, giá thuê,....của lãnh thổ kêu gọi đầu tư cũng được thể hiện; (2) WebGIS cũng giúp nhà quản lý ở Việt Nam nâng cao hiệu năng trong việc cung cấp thông tin quảng bá xúc tiến đầu tư, dễ dàng phối hợp hoạt động xúc tiến đầu tư với các hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch...
Bên cạnh hai công tác trên, Chính phủ nên lập một số khung khổ pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox). Theo cách này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhanh chóng ban hành thành luật, các hướng dẫn pháp lý để kịp thời ứng phó với sự thay đổi tình hình nhanh chóng do tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0. Các chính sách đó được thử nghiệm có kiểm soát bởi một ủy ban rà soát và theo dõi. Sau một thời gian thử nghiệm, các chính sách này sẽ được phê duyệt để áp dụng phổ biến nếu hiệu quả cao hoặc dừng triển khai nếu không khả thi hoặc không hiệu quả.
Thứ hai, các chính sách giải quyết điểm nghẽn về nguồn nhân lực cần triển khai đồng bộ với các nhóm đối tượng có liên quan trực tiếp đến hoạt động của khu vực FDI:
- Đối với nhóm cán bộ quản lý, cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực (cả về kiến thức và kỹ năng), đòi hỏi tư duy tổng hợp, kỹ năng xử lý tình huống tốt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi trong tuyển dụng các cán bộ quản lý có chất lượng đáp ứng yêu cầu của công việc trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.
- Đối với đội ngũ nhân công lao động trực tiếp, cần có các cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong đào tạo nguồn nhân lực theo những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của lao động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Trước mắt, nên lựa chọn và đầu tư một số cơ sở trọng điểm đào tạo theo hướng đa ngành nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có tư duy tổng hợp ở kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0 thay vì đào tạo quá chuyên sâu như trước đây. Ngoài ra cần chú trọng công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức đối với người dân về nghề nghiệp trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0: cần chủ động trang bị các kiến thức và kỹ năng trong đó chú trọng tính sáng tạo, chủ động thay vì tư duy thụ động chờ đợi công việc lao động giản đơn như trước đây
- Đối với đội ngũ doanh nhân trong nước, sự phát triển của đội ngũ doanh nhân trong nước, đặc biệt là ở các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ tạo sức hút lớn đối với các nhà đầu tư FDI. Chính vì thế, để phát triển đội ngũ này, Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ hình thức khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo đồng thời tuyên truyền, đào tạo nhằm thay đổi nhận thức của đội ngũ doanh nhân trong nước trong hoạt động đầu tư nói chung và các hoạt động hợp tác với khu vực FDI nói riêng.
Thứ ba, đối với điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng trong thu hút FDI trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Chính phủ cần tập trung triển khai sớm việc thiết lập kết cấu hạ tầng 4.0 nhằm thúc đẩy ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI nói riêng. Để giải quyết khó khăn về tài chính cho hoạt động này Chính phủ cần xác định vai trò chính là mang tính kiến tạo, định hướng hoặc đảm nhận vai trò đầu tư “mồi” ở một số dự án khó thu hút FDI còn nguồn lực tài chính chủ yếu cho hạ tầng Cách mạng công nghiệp 4.0 nên huy động từ khu vực tư nhân trong nước và khu vực FDI.
Thứ tư, Chính phủ cần sớm xác định và ban hành các chính sách thu hút FDI cho các ngành chiến lược (FDI thế hệ mới), ưu tiên các ngành chịu tác động mạnh mẽ và có triển vọng áp dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam, đặc biệt là nông nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin, tài chính.
- Về nông nghiệp, tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ thay đổi mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp nhờ các thành tựu trong công nghệ sinh học. Việc lựa chọn sớm các nông sản chủ lực, có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam và đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với các sản phẩm đó (ở tất cả các khâu: trồng, thu hoạch và bảo quản, chế biến) là hướng lựa chọn hợp lý để thúc đẩy hoạt động xúc tiến đầu tư, thu hút FDI vào nông nghiệp.
- Về du lịch, Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ hỗ trợ nhiều hơn cho nhiều hoạt động du lịch như tìm kiếm thông tin về địa điểm du lịch, chỗ ăn uống, lưu trú13. Với nhiều tiềm năng về phát triển du lịch và dư địa cho đầu tư phát triển còn lớn, du lịch được xem là ngành sẽ có sức thu hút FDI lớn song chính phủ cần có các giải pháp nhằm làm minh bạch hơn quy hoạch (đặc biệt là quy hoạch đối với các địa bàn du lịch phát triển) nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu tư FDI (do tính chất đầu tư lâu dài của loại hình này), chú trọng hơn nữa công tác quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam cũng như hạn chế các điểm yếu cố hữu của ngành du lịch (về hạ tầng, chất lượng nhân lực,...).
- Về công nghệ thông tin, đây là nhóm ngành chịu tác động rõ nét nhất của Cách mạng công nghiệp 4.0 vì thế để phát triển đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút FDI vào lĩnh vực này, giải pháp then chốt Chính phủ Việt Nam cần ưu tiên đầu tư có trọng điểm nguồn nhân lực (cả đối với nhân lực trong nước, chuyên gia Việt kiều và người nước ngoài) đồng thời nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin bắt kịp với khu vực và thế giới.
Cùng với cải thiện về vật chất, các chính sách gắn với công nghệ thông tin cần hướng đến chuẩn mực quốc tế nhằm tạo sự thuận lợi trong kết nối, chia sẻ dữ liệu, thông tin từ đó giúp khai thác hiệu quả nguồn lực chủ đạo này trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.
- Về tài chính, đây là ngành chịu tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 song cũng hứa hẹn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư FDI. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành có tính nhạy cảm rất cao, hoạt động Tài chính 4.0 chỉ có thể đạt hiệu quả cao và bền vững trong khung khổ pháp luật minh bạch và tương thích với các chuẩn mực quốc tế. Chính vì vậy, để thu hút các nhà đầu tư FDI và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ Tài chính 4.0 (Fintech, Findata), Chính phủ cần sớm ban hành các chính sách quy định nhằm chuẩn hóa các nội dung về công nghệ Tài chính (về bảo mật, về các hình thức thanh toán,...).