Bộ trưởng Trần Tuấn Anh trả lời các vấn đề “nóng” trước Quốc hội: Thẳng thắn và trách nhiệm (*)

Đăng đàn sáng 15/11/2016, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh trả lời những vấn đề “nóng” đang được đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm. .

Tạp chí Công Thương trân trọng giới thiệu toàn văn phiên chất vấn và trả lời chất vấn trước Quốc hội của Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh.

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước

Kính thưa chủ trì phiên họp

Thưa Quốc hội

Thưa cử tri cả nước

Mặc dù là Bộ trưởng được Quốc hội phê chuẩn qua 2 nhiệm kỳ nhưng thực tếđảm nhận chức vụ được 7 tháng nay. Bản thân tôi, trong lĩnh vực của Bộ Công Thương, một Bộđa ngành, đa lĩnh vực, công việc rất lớn, rộng, sâu. Quá trình công tác cống hiến của mình tôi đã có những kinh nghiệm, hiểu biết, tuy nhiên chắc sẽ còn nhiều vấn đề còn hạn chế so với yêu cầu.

Dưới góc độ Bộ trưởng, người đứng đầu ngành trong thực thi nhiệm vụĐảng, Nhà nước, nhân dân giao phó, tôi cam kết cho dù trong khuôn khổ cuộc chất vấn hay sau phiên chất vấn, cá nhân tôi cũng đội ngũ lãnh đạo ngành công thương luôn luôn làm hết tinh thần, trách nhiệm của mình để xây dựng tập thể công chức, viên chức toàn ngành chất lượng, hiệu quả, thực thi tốt chức năng, nhiệm vụ, quản lý nhà nước, cũng như thực hiện nhiệm vụ, đóng góp vào việc xây dựng kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, phục vụ cho đồng bảo cử tri và nhân dân cả nước, xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn nữa, theo mục tiêu phát triển của đất nước.

Trong phiên chất vấn ngày hôm nay, tôi rất vinh dự khi Bộ Công Thương nhận được nhiều sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội cũng như cử tri cả nước.

Chúng tôi hy vọng trong buổi sáng ngày hôm nay, bằng sự chuẩn bị, bằng sự hiểu biết của mình cũng như tập thể lãnh đạo, công chức, viên chức ngành Công Thương sẽ cố gắng cung cấp đầy đủ, rõ ràng những nội dung được đề cập trong phiên chất vấn.

Tuy nhiên có những vấn đề mà chúng tôi nắm chưa rõ, chưa đầy đủ nhưng vẫn trong phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của Bộ cũng như sự phối hợp với các Bộ ngành khác, chúng tôi hứa sẽ tiếp thu và có văn bản giải trình đầy đủ và cụ thể hơn tới các đại biểu và cử tri cả nước.

Thưa các đại biểu, sau chất vấn, chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực để kiện toàn bộ máy, cải cách hành chính cũng như hoàn thiện công tác quản lý nhà nước của mình. Đặc biệt chúng tôi sẽ tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả bộ máy ngành Bộ Công Thương nhằm phục vụ tốt cho một Chính phủ liêm chính, kiến tạo.

Xin cảm ơn các vị đại biểu

Xin cám ơn Quốc hội.

Phần chất vấn và trả lời chất vấn

Đại biểu Nguyễn Tiến Sinh – Đoàn Hòa Bình

Thưa Bộ trưởng, báo cáo với Quốc hội về nguyên nhân của những thua lỗ, kém hiệu quả từ những siêu dựán do DN nhà nước đầu tư, Bộ quản lý, Bộđã chỉ rõ, không loại trừ những hành động có sự cốý vi phạm pháp luật của nhà nước trong hoạt động quản trị, cũng nhưđiều hành các hoạt động đầu tư tại doanh nghiệp nhà nước. Theo tôi hiểu, báo cáo của Bộ trưởng có sai phạm trong công tác quản trị của doanh nghiệp, có sai phạm trong quản lýđiều hành trong cơ quan quản lýđầu tư tại doanh nghiệp của các cơ quan quản lý nhà nước. Đề nghị Bộ trưởng làm rõ hơn sai phạm này? Đâu là trách nhiệm của các cơ quan quản trị tại doanh nghiệp khi xây dựng các dự án kém hiệu quả? Đâu là trách nhiệm cơ quản quản lý nhà nước trong quản lý đầu tư tại doanh nghiệp? Bộ trưởng có kiến nghị gì với Quốc hội, Chính phủ để khắc phục những bất cập trong công tác quản lý đầu tư trong công tác quản lý nhà nước, không để xảy ra tình trạng “con voi chui lọt lỗ kim” trong công tác quản lý của Bộ Công Thương?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đối với câu hỏi của Đại biểu Nguyễn Tiến Sinh đoàn Hòa Bình về 05 dự án thua lỗ tồn đọng, còn nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện trong lĩnh vực mà Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý ngành. Như báo cáo của Bộ Công Thương, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã gửi tới các vị đại biểu, chúng tôi đã đánh giá sơ bộ. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi hiểu rằng các Đại biểu Quốc hội, đồng bào cử tri còn mong muốn làm rõ hơn nữa những nguyên nhân, tồn tại, bất cập, đặc biệt các hướng xử lý, khắc phục và cả bài học kinh nghiệm cũng như việc xem xét trách nhiệm, tránh tình trạng tiếp tục xảy ra trong tương lai.

5 dự án này đều được xem xét phê duyệt chủ trương đầu tư, thực hiện từ năm 2003 – 2008 và kéo dài cho đến nay trong nhiều lĩnh vực: từ lĩnh vực xơ sợi phục vụ cho công nghiệp dệt may, cho đến lĩnh vực đạm phục vụ sản xuất phân bón, xăng ethanol, sau đó là các lĩnh vực gang thép...

Các dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau nên nguyên nhân dẫn đến thua lỗ cũng xuất phát từ những nguyên nhân không giống nhau. Do vậy, nếu đánh giá thì cần phải đánh giá trên cơ sở từng dựán một nếu gộp vào chung sẽ rất khó.

Tuy nhiên, qua đánh giá, phân tích, chúng tôi thấy có một số vấn đề:

Thứ nhất: Các dự án này đều có thời gian triển khai quá dài so với thời hạn của dự án đầu tư đã được thẩm định. Chẳng hạn như dự án Đình Vũ, ethanol Phú Thọ, đạm Ninh Bình. Thậm chí dự án đạm Ninh Bình không những kéo dài trong quá trình đầu tư mà cho đến nay còn không quyết toán được đầu tư mặc dù nhà máy đã đi vào vận hành.

Thứ hai:Các dự án này là đều rơi vào thời điểm biến động của thị trường thế thời. Khi kéo dài quá lâu, dẫn đến thị trường thế giới ảnh hưởng đến các hạng mục và thời hạn thực hiện dự án, cụ thể là nguyên liên vật liệu cũng như thị trường hàng hóa của thế giới cũng có những biến động. Ví dụ, dầu khí, dầu thô, những sản phẩm từ dầu từ mức hơn 100 USD/thùng, thậm chí 147 USD/thùng (những năm 2008) sau đó tụt và giữ ở mức trên dưới 40 USD/thùng. Việc biến động giá nhiên liệu đã tác động đến thị trường, đầu ra của sản phẩm nhà máy và ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án. Còn như đạm Ninh Bình sản xuất phân bón từ than không thể cạnh tranh nổi với những mặt hàng phân bón sản xuất từ khí. Hoặc dự án sơ sợi Đình Vũ không thể cạnh tranh với những sản phẩm đã được khấu hao và có giá thành rất thấp của những sản phẩm sơ sợi nhập ngoại từ bên ngoài vào được sản xuất từ nguồn của dầu mỏ.

Thứ ba: Bên cạnh đó những tác động khách quan kể trên còn một số nguyên nhân chủ quan như: Năng lực của chủ đầu tư còn hạn chế. Chủ đầu tư ở đây phải khẳng định theo phân cấp về mặt thể chế thì các Tập đoàn, Tổng công ty 91 khi được phê duyệt chủ trương đầu tư là người trực tiếp thực hiện quản lý về dự án đầu tư. Với tư cách chủ đầu tư và được giao quyền trực tiếp phê duyệt và thực hiện dự án, các chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính khả thi, kể cả về công nghệ, tư vấn giám sát, nhà thầu, đàm phán với đối tác nước ngoài...

Bên cạnh đó, nguyên nhân còn kể đến là năng lực còn hạn chế của các Ban quản lý dự án cũng như của những đối tượng trực tiếp được phân công giao nhiệm vụ quản lý được cụ thể trong các dự án. Ví dụ như đạm Ninh Bình, sơ sợi Đình Vũ, xăng ethanol…

Chính những hạn chế trong nguồn nhân lực dẫn đến các dự án bị kéo dài, việc thực hiện không được suôn sẻ, không đúng quy định của hợp đồng, nội dung dự án đầu tư đã được phê duyệt…

Chính vì vậy, cho đến nay, các dự án đã nêu trên đều có những tồn tại, vướng mắc, hiệu quả kinh tế không còn. Giả sử các dự án đó đưa vào triển khai thực hiện, vận hành thương mại cũng không đủ điều kiện cạnh tranh. Thậm chí có những dựa án, doanh thu không bù đủ cho chi phí.

Vì vậy, ở đây, quan điểm của Chính phủ cũng như các Bộ ngành khi tổ chức đánh giá các vấn đề tồn tại của dự án này, chúng ta phải đánh giá đầy đủ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Căn cứ vào các quy định chung của pháp lý để làm rõ trách nhiệm cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra.

Ở đây tôi xin được đề cập đến một số nội dung cơ bản, nguyên tắc chỉ đạo của Chính phủ:

Thứ nhất:Các giải pháp cho các dự án này cần được nghiên cứu đầy đủ, tổng thể, phù hợp với khung khổ pháp lý cũng như nguyên tắc của kinh tế thị trường nhưng phải đảm bảo được mục tiêu bảo vệ vốn, bảo đảm lợi ích tài sản của nhà nước cũng như doanh nghiệp nhà nước trong các dự án này.

Thứ hai: Các giải pháp phù hợp kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế hội nhập và các cam kết quốc tế.

Thứ ba: Phải xem xét, làm rõ trách nhiệm, có biện pháp khắc phục triệt để thông qua quy định chung của pháp lý bao gồm bán dựa án, cho thuê, cổ phần hóa, hoặc giao lại trách nhiệm hoàn chỉnh dự án khai thác hoặc thậm chí tuyên bố phá sản.

Những vấn đề này, Chính phủ đã chỉ đạo cho các Bộ ngành phối hợp, đánh giá toàn diện, báo cáo Chính phủ. Cụ thể, về dự án gang thép Thái Nguyên, sơ sợi Đình Vũ, xăng sinh học, Bộ Công Thương đã có giải trình với Chính phủ, cũng như đề xuất giải pháp, biện pháp cụ thể. Sau phiên họp Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo cho ý kiến có hướng tháo gỡ hay không, cũng như có hướng để xử lý triệt để các dự án này. Đồng thời phải xem xét, xử lý trách nhiệm, cũng như bài học kinh nghiệm rút ra để đảm báo không để tái diễn tình trạng tương tự.

Trước hết, trong trách nhiệm cần làm cẩn trọng, đánh giá đúng, đầy đủ theo quy định chung của khung khổ pháp lý, đặc biệt từng giai đoạn khác nhau đều có những khung pháp lý đã có sự điều chỉnh, thay đổi. Vì vậy chúng ta cần đánh giá đúng để xem xét rõ trách nhiệm của các cấp, các tổ chức và cá nhân. Đồng thời, cần phân định làm rõ nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, vô tình hay cố tình. Trong báo cáo mới đây chúng tôi đã nêu nên không loại trừ có sự có cố tình làm sai, điều đó sẽ được làm rõ trong thời gian tới.

Các dự án như tôi đã báo cáo được thực hiện ở các mức độ khác nhau, có tính chất đặc thù khác nhau. Chúng ta cần làm cẩn trọng. Một số dự án đã có kết luận của thanh tra Chính phủ, một số dự án có kết luận của kiểm toán nhà nước, một số dự án mới có kết luận của thanh tra bộ tài chính, một số dự án đang chịu sự thanh tra của Bộ Công Thương. Chúng tôi sẽ tổng hợp và có báo cáo đầy đủ với Chính phủ, với Đại biểu Quốc hội sau. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, việc có hay không sự cố tình, tránh nhiệm thuộc về ai cá nhân, tổ chức nào sẽ được làm rõ và chắc chắn sẽ được xét xử, kể cả với trách nhiệm hình sự.

Về những bài học kinh nghiệm, chúng tôi đã đề cập trong phiên báo cáo mới đây, có một số vấn đề cần phải quan tâm:

Một là, đối với quản lý của các doanh nghiệp nhà nước, cần đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước cũng như thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nguồn vốn chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp của nhà nước. Về vấn đề này, Trung ương đã cho ý kiến, Chính phủ đang chỉ đạo để tiếp tục xây dựng mô hình trong quản lý doanh nghiệp nhà nước cũng như chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Hai là, cần xác định làm rõ trong khung pháp lý, chủ trương phát triển và quán triệt vai trò của quản lý nhà nước trong lĩnh vực về kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực về phát triển kinh tế. Quan điểm, không phải trong tất cả các lĩnh vực, nhà nước đều cần phải có vai trò quản lý mà cần tiếp tục tạo ra cơ hội thị trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở tiếp tục xây dựng môi trường kinh doanh sản xuất bình đẳng, công khai, minh bạch, kiểm soát được, đảm bảo khai thác được nguồn lực sản xuất, tạo nguồn lực sản xuất đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Ba là, vai trò của các bộ quản lý nhà nước trong quản lý nhà nước, thông qua quy hoạch về ngành, các chiến lược phát triển cần được xem xét làm rõ, đổi mới về phương thức, chất lượng trách nhiệm của công tác nhà nước trong lĩnh vực này. Những vấn đề lớn liên quan đến mô hình, chất lượng đội ngũ nhân lực để xây dựng các quy hoạch, chiến lược, tổ chức quản lý các chiến lược này, đảm bảo phát triển bền vững của đất nước.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện, đổi mới mô hình quản trị của nhà nước theo hướng doanh nghiệp hiện đại, phù hợp xu hướng thị trường, phù hợp với xu thế hội nhập và cam kết hội nhập.

Năm là qua các nội dung đã nêu, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện về khung khổ pháp lý, hoàn thiện về thể chế, trong đó bao gồm cả những nội dung phân cấp kèm theo hậu kiểm, làm rõ trách nhiệm của các cấp, kể cả các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư, chủ trương đầu tư, quá trình thực hiện đầu tư. Luật đầu tư công của Quốc hội được thông qua là nội dung quan trọng giúp chúng ta có điều kiện hoàn thiện mô hình quản lý.

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy – Đoàn Đà Nẵng

Cách đây 7 năm, khi dự luận và nhiều Đại biểu Quốc hội lo lắng về hiệu quả kinh tế của các công trình khai thác Bô xít ở Tây Nguyên, Bộ Công Thương đã có văn bản giải trình và cam kết trước Quốc hội. Thực tế hiện nay cho thấy những lo lắng của dư luận và của các Đại biểu Quốc hội là hoàn toàn đúng thể hiện qua việc thua lỗ, xẩy ra một số sự cố về tràn bùn đỏ và hóa chất... Vậy Bộ trưởng đánh giá những ý kiến, giải trình, cam kết trước đây của Bộ như thế nào. Bộ trưởng có giải pháp gì cho vấn đề này?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Liên quan đến vấn đề Bô xít và 02 dự án ở Đắc Nông là Nhân Cơ và Tân Rai, thực hiện chủ trương của Chính phủ, các dự án được triển khai trong thời gian qua với sự quan tâm cao đến các vấn đề về bảo vệ môi trường.

Cả 2 dựa án được triển khai, có sự phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực về tài nguyên và môi trường, phù hợp với quy chuẩn và tiêu chuẩn của môi trường Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện, Ban quản lý dự án, chính quyền địa phương cũng như Bộ Công Thương, các Bộ ngành có liên quan đều tổ chức các hoạt động kiểm tra và đánh giá về việc chấp hành pháp luật về môi trường tại các địa phương từ những vấn đề lớn như xử lý bùn đỏ, thi công, thực hiện các hạng mục đầu tư, chấp hành pháp luật về môi trường của hai dự án này trên địa bàn Tây Nguyên.

Tuy nhiên, trong thời gian thi công xảy ra một số sự cố như sự cố làm tràn xút của Nhà máy Alumin ngày 25/7/2016 của dự án Nhân Cơ. Lý do dẫn đến sự cố trên là do thời tiết mưa, ảnh hưởng của yếu tố thời tiết làm cho đê bị chắn chảy tràn xuống hệ thống của khu thoát nước mưa và thoát ra cơ sàn. Việc này đã được các nhà thầu cũng như Ban quản lý dự án kiểm tra có biện pháp khắc phục. Đồng thời, bên cạnh đó, chúng tôi đã tổ chức rút kinh nghiệm, kiểm tra lại quá trình thực hiện các dự án đầu tư, đảm bảo chấp hành pháp luật trong từng hạng mục đầu tư cũng như công tác vận hành chung của nhà máy. Tuy nhiên, ở đây rất cần có vai trò của cơ quan quản lý địa phương phối hợp với chủ đầu tư để có biện pháp giám sát, kiểm tra kịp thời. Đồng thời có sự chỉ đạo thường xuyên của các Bộ ngành, trong đó có Bộ chủ quản là Bộ Công Thương, Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam cũng như Bộ Tài nguyên và Môi trường để có sự kiểm tra định kỳ cũng như kiểm tra ý thức chấp hành ý thức pháp luật của các dự án này vì đây là dự án có tác động rất lớn, ảnh hưởng đến môi trường cũng như hiệu quả đóng góp vào sự phát triển của kinh tế xã hội của vùng và của đất nước.

Đại biểu Võ Đình Tính – Đoàn Đắk Nông

Hiện nay tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ trên thị trường ngày càng nhiều nhưng lực lượng chức năng không kiểm soát nổi, nhất là phân bón nhập lậu, phân bón giả tràn lan đã và đang tác động nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, an ninh lương thực, sức khỏe của nhân dân và môi trường. Tinh vi hơn, các cơ sở sản xuất này đem bán cho tỉnh kia với giá rẻ để thực hiện các hành vi phạm pháp. Các đối tượng đã sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi. Xin Bộ trưởng cho biết giải pháp về vấn đề này như thế nào để lập lại thị trường phân bón? Trách nhiệm này thuộc về tổ chức, cá nhân nào? Trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đã xử lý hành chính đã xử lý bảo nhiêu vụ? Chuyển cơ quan điều tra bao nhiêu vụ vi phạm?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đúng như đại biểu ý kiến. Thực tế là có vấn đề rất lớn liên quan đến quản lý nhà nước, đầu tiên là quản lý nhà nước đối với mặt hàng phân bón.

Hiện nay thị trường phân bón tại Việt Nam có sự cắt khúc và chia đôi. Một phần quản lý phân bón vô cơ được giao cho Bộ Công Thương. Phần còn lại là quản lý phân bón hữu cơ được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý bao gồm khẩu sản xuất, cấp phép, hợp quy, công bố hợp quy và quản lý kinh doanh.

Trên thực tế, với hai Bộ cùng tham gia quản lý phân bón trong bối cảnh các loại phân bón có sự đa dạng về loại hình khác nhau, trộn lẫn giữa phân đơn và phân đa, hợp chất phân bón vô cơ và hữu cơ, các loại phân vi lượng … dẫn đến tình trạng chồng chéo giữa hai cơ quan quản lý của nhà nước. Vì vậy, hiệu lực và hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian qua không được đảm bảo trên địa bàn cả nước đối với mặt hàng phân bón, kể cả sản xuất cũng như nhập khẩu.

Bên cạnh đó, có tình trạng là chúng ta tồn tại quá nhiều loại phân bón. Riêng đối với Bộ Nông nghiệp có hơn 5.000 bộ hợp quy dành cho các loại phân bón hữu cơ. Bộ Công Thương có hơn 5.700 bộ hợp quy khác dành cho phân bón vô cơ. Chính vì vậy dẫn đến thực tế tình trạng trên thị trường của chúng ta các loại phân bón rất nhiều, các cơ quan quản lý nhà nước không đủ nguồn lực và điều kiện kiểm soát chất lượng, hàm lượng, định lượng của các loại phân bón này.

Thậm chí, trên thực tế, lượng phân bón giả có hàm lượng vi lượng dưới 70% so với định lượng được công bố trên sản phẩm cũng như quy chuẩn của sản phẩm gây ra ảnh hưởng đến mùa màng, sản xuất của bà con nông dân và môi trường.

Để khắc phục được điều này, Bộ Công Thương cũng như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có nhiều đợt cùng phối hợp làm việc. Mới đây nhất đã có báo cáo với Chính phủ xem xét, giao trách nhiệm về quản lý thị trường phân bón cho một cơ quan duy nhất là cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, các Bộ ngành khác có liên quan phải phối hợp, tổ chức lại mặt hàng phân bón theo hướng giới hạn lại các mặt hàng phân bón được sản xuất kinh doanh trên thị trường Việt Nam.

Tại các nước khác có nền nông nghiệp phát triển như Thái Lan, cũng chỉ có hơn 100 loại phân bón được quy hoạch.

Do vậy, tới đây, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về chống phân bón giả, kém phẩm chất, phân bón lậu.

Cùng với đó, cần sớm xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý, đặc biệt hệ thống quy chuẩn quốc gia cũng như tiêu chuẩn quản lý nhà nước trong phân bón, tạo điều kiện cho mặt hàng phân bón phát triển bền vững, đáp ứng yêu về môi trường cũng như yêu cầu cho phục vụ sản xuất.

Bộ Công Thương đang tiến hành xây dựng và khẩn trương hoàn chỉnh, đầu năm 2017 sẽ gửi Bộ Khoa học và Công nghệ thông qua 16 bộ quy chuẩn quốc gia trong lĩnh vực phân bón.

Ngoài ra còn nhiều việc khác cần có sự phân cấp trong chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước để quản lý tận gốc các hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón. Nhất là khi đã tổ chức lại sản xuất phân bón ở địa phương. Cần quản lý tận gốc để không cho những cơ sở nhỏ lẻ, cơ sở có dấu hiệu sản xuất phân bón giả, kém phẩm chất gây thiệt hại kinh tế, cũng như cho người tiêu dùng.

Đại biểu Trần Thị Dung – Đoàn Điện Biên:

Chưa bao giờ tính mạng người dân lại mỏng manh trước thiên tai và nhân tai đến thế. Chết người, trắng tay là hệ quả đau lòng của người dân vùng hạ lưu. Từ những sai phạm trong vận hành thủy điện An Khê, Ka Nắk. Ngày 25/5/2011, thủy điện An Khê bất ngờ xả lũ làm người dân thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Tháng 11/2013 người dân An Khê cũng bị thiệt hại trên chục tỷ đồng. Ngày 1.11 vừa qua cũng xả lũ và khiến người dân ngập tràn trong lũ. Thủy điện Hố Hô xả lũ làm chết 20 người. Bộ trưởng sẽ xử lý vấn đề trên như thế nào? Việc thực hiện rà soát các công trình thủy điện theo Nghị quyết 62 năm 2000 của Quốc hội Khóa XIII được thực hiện đến đâu? Những bất cập xoay quanh cái gọi là vận hành theo Bộ trưởng trong thời gian tới có được loại bỏ không? Người dân có được sống trong môi trường an lành không?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Trước khi phiên họp Quốc hội khai mạc, Bộ Công Thương thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã có báo cáo dài gần 20 trang đề cập đến vấn đề trên. Trong đó, báo cáo cũng đề cập cụ thể việc triển khai thực hiện Nghị quyết 62 của Quốc hội ở nhiệm kỳ trước và đã báo cáo đánh giá rất toàn diện và đầy đủ về các nội dung liên quan đến việc triển khai nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết 62, trong đó bao gồm cả từ công tác quản lý về quy hoạch cho đến việc thông qua các chủ trương đầu tư quản lý các dự án đầu tư cũng như phân cấp quản lý các dự án thủy điện tại các địa phương. Tất cả các khía cạnh đều được đề cập kể cả việc đảm bảo an toàn của thủy điện cũng như trong quy trình xả lũ, các phương án để đảm bảo chống lũ lụt ở hạ du cũng như các vấn đề về quản lý nhà nước nói chung và phân cấp cho địa phương. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị các đại biểu Quốc hội có thể tham khảo thêm những nội dung này để nắm thông tin tổng thể chung về vấn đề thủy điện và hệ thống thủy điện tại Việt Nam.

Đối với thủy điện Hố Hô, thủy điện An Khê – Ka Nắk và các thủy điện khác, chúng tôi xin khẳng định một lần nữa là quan điểm chúng ta không phát triển thủy điện bằng mọi giá, cũng như không phát triển về các dự án của chúng ta bằng mọi giá, kể cả trong lĩnh vực năng lượng và các lĩnh vực khác. Đây là quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước cũng như Chính phủ.

Như đã báo cáo trong Nghị quyết 62 về cơ bản, chúng ta đã khai thác hết những tiềm năng thủy điện lớn của đất nước, các thủy điện nhỏ và vừa chúng ta đã căn cứ theo chỉ đạo của Quốc hội để xem xét, đánh giá lại và đưa ra khỏi quy hoạch những dự án không đảm bảo và yêu cầu về bảo vệ môi trường cũng như để ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân. Về cơ bản các dự án hiện nay có khoảng hơn 336 dự án thủy điện. Hiện nay, chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực về thủy điện và các đập thủy điện được phân bổ cho một loạt các bộ. Trong đó, Bộ Công Thương quản lý nhà nước chủ đạo trong các lĩnh vực về năng lượng và về thủy điện. Ngoài ra, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng tham gia quản lý trong các khía cạnh khác.

Liên quan đến vấn đề xả lũ mà đại biểu đề cập, có 3 nguyên tắc cơ bản:

Một là phương án về phòng, chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn ở tại địa phương do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp làm Chủ tịch Ủy ban. Các phương án được phê duyệt tại địa phương gồm cả các chủ đập, chủ thủy điện tham gia vào trong các phương án đó.

Thứ hai, về quy trình xả lũ có quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ quy định rõ ràng đối với đập thủy điện có dung tích từ 1 triệu m3 trở lên công suất từ 30 MW trở lên do Bộ Công Thương thẩm định và phê duyệt quy trình xả lũ của hồ thủy điện, còn dưới quy mô đó là do lãnh đạo của địa phương phê duyệt.

Thứ ba, các chủ đập thủy điện và các doanh nghiệp đều phải tham gia để cùng với địa phương xây dựng các phương án phòng, chống lũ ở hạ lưu và đảm bảo an toàn cho hạ lưu khi xả lũ. Phải có đủ ba yếu tố này thì các đập thủy điện và các chủ dự án mới được cấp giấy phép hoạt động điện lực.

Từ khi có Nghị định năm 2013 thì chúng ta đã đôn đốc kiểm tra để tổ chức thực hiện đầy đủ những quy định của pháp lý về vấn đề này, cả Hố Hô, cả An Khê– Ka Nắk và các đập thủy điện khác đều phải đảm bảo những nguyên tắc và đáp ứng được những yêu cầu của các quy định pháp lý của nhà nước trong lĩnh vực an toàn thủy điện cũng như an toàn về xả lũ thì mới được cấp phép hoạt động điện lực.

Tuy nhiên, có một thực tế tồn tại trong thời gian vừa qua là các đập khi xả lũ thì thường xuyên gây ra sự bức xúc trong nhân dân, trong dư luận xã hội và đã được phản ánh, ví dụ thời gian vừa qua liên quan đến xả lũ của Hố Hô cũng như của An Khê– Ka Nắk. Tại sao có những vấn đề này, Bộ Công Thương đã rất chủ động tổ chức các đoàn đi kiểm tra ngay khi có lũ về và có nhu cầu xả lũ. Chúng tôi đã tổ chức các đoàn đi Hố Hô, An Khê – Ka Nắk, đi sông Ba.... để kiểm tra, đánh giá cụ thể, trên thực tế cho thấy có một số vấn đề.

Thứ nhất,quy trình của chúng ta có nhưng việc chấp hành thực hiện quy trình nhiều khi còn máy móc và nguyên tắc. Ví dụ như nguyên tắc của xả lũ, của hồ thủy điện thì chủ hồ, chủ đập thủy điện phải có nhiệm vụ thông báo cho chính quyền địa phương, cho bộ phận phòng, chống lụt bão của địa phương và các địa phương ở hạ lưu. Nhưng lại không nói rõ trong quy định là việc thông báo đó dưới những hình thức nào và đảm bảo yêu cầu như thế nào nên nhiều khi chủ đập, chủ thủy điện có thông báo nhưng không thông báo đầy đủ đến tất cả do những lý do mất điện, thậm chí đánh kẻng báo động, nhưng lại không nghe thấy, dẫn đến có sự phối hợp chưa tốt giữa các chủ đập thủy điện với chính quyền các địa phương, đặc biệt trong các phương án phòng, chống lụt bão được phê duyệt.

Thứ hai, trên thực tế có các phương án phòng, chống lụt bão, kể cả xả lũ nhưng việc tổ chức diễn tập thực hiện, mà trong quy định của pháp luật là không tổ chức thực hiện ở tại các địa phương, dẫn đến tình trạng trên thực tế khi có sự cố xảy ra thì việc thực hiện tổ chức đó không đảm bảo hiệu quả. Sự chủ động giữa chủ đập thủy điện, các dự án của các nhà máy với địa phương không được đảm bảo, thậm chí trong trường hợp như của Hố Hô vừa rồi khi chủ đập thủy điện báo cáo gọi điện thì lại không nghe máy và cũng không báo tiếp được, vì vậy dẫn đến tình trạng một số địa phương ở phía hạ lưu không đảm bảo được thông tin xuyên suốt cũng như trong việc phối hợp.

Thứ ba, trong quá trình thực việc theo dõi dự báo thời tiết, đặc biệt là hệ thống quan trắc của các thủy điện không được đảm bảo, chưa có sự đầu tư vận hành tốt của hệ thống quan trắc thủy điện để phục vụ cho các chủ đập, các doanh nghiệp thủy điện cũng như địa phương trong việc theo dõi, chủ động trong phương án phòng, chống lụt bão cũng như phối hợp xả lũ.

Vì vậy, tới đây Bộ Công Thương sẽ chủ động trong công tác quản lý vận hành như sau:

Một là tổng kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ chất lượng của quy trình xả lũ cũng như phương án tham gia phối hợp về phòng chống lụt bão, đặc biệt đảm bảo an toàn ở hạ du căn cứ theo quy định của nhà nước.

Hai là đánh giá, kiểm tra lại chất lượng của các hoạt động về phòng chống lụt bão cũng như đảm bảo an toàn của thủy điện khi xả lũ tại địa phương và xem xét để tổ chức tập huấn và làm rõ trách nhiệm của tất cả các bên có tham gia, kể cả của chính quyền địa phương các cấp cũng như chủ đập, chủ doanh nghiệp ở tại địa phương. Đi kèm đó sẽ thực hiện nghiêm theo các chế tài, các quy định và các doanh nghiệp nếu không thực hiện được đầy đủ các quy định và có sự vi phạm pháp luật thì sẽ xem xét, thậm chí cấm không cho tham gia hoạt động điện lực cũng như rút phép của các dự án đó.

Ba là phân định, làm rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, đặc biệt là của chính quyền địa phương các cấp, khu vực hạ du trong việc chủ động xây dựng và các phương án phòng chống lụt bão để có sự tham gia của các doanh nghiệp, các chủ đập cũng như của các đối tác khác, đảm bảo hiệu quả an toàn cũng như đời sống sinh hoạt, ý kiến xã hội của nhân dân.

Đại biểu Nguyễn Sỹ Cương – Đoàn Ninh Thuận:

Tôi có một câu hỏi nhưng trùng với đại biểu Tín, Bộ trưởng cũng đã có một câu trả lời tương đối đầy đủ về vấn đề phân bón. Tuy nhiên, tôi muốn làm rõ về vấn đề quản lý nhà nước. Thiệt hại phân bón giả và phân bón kém chất lượng cho nền nông nghiệp và cho 60 triệu nông dân là rất lớn. Vừa qua đã phát hiện được việc cấp khống phân bón hữu cơ, hợp chuẩn phân bón hữu cơ tại Bộ Nông nghiệp và đã xử lý hàng loạt cán bộ. Mặc dù, đối với phân bón vô cơ chưa phát hiện được sai phạm, tuy nhiên các chuyên gia vẫn cho rằng có đến 30% đến 40% tỷ lệ phân bón vô cơ là giả và kém chất lượng. Vậy, trách nhiệm quản lý nhà nước của bộ về phân bón vô cơ ở đây được xác định như thế nào. Tôi cũng cho rằng vấn đề cần làm rõ, các giải pháp Bộ trưởng vừa đưa ra, trong lúc chờ để thực hiện được các giải pháp đó cần có biện pháp như thế nào để hạn chế thiệt hại cho người nông dân. Tôi biết Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng quan tâm rất sâu sắc vấn đề này, tôi đề nghị Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường tham gia trả lời để có được câu trả lời sâu sắc.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Cảm ơn các đại biểu đã đặt một số câu hỏi cụ thể. Về các nội dung câu hỏi, Chủ tịch Quốc hội đang nói về vấn đề liên quan đến phân bón đã được đề cập một lần và đồng thời sẽ có Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng sẽ chia sẻ thêm, vì đây cũng trong lĩnh vực quản lý nhà nước đang có sự giao thoa, phối hợp. Tuy nhiên, tôi xin được bổ sung thêm một số thông tin liên quan đến câu hỏi của đại biểu Sỹ Cương đoàn Ninh Thuận. Tức là ngoài việc những tồn tại và vướng mắc nhất trong sự chồng lấn và sự giao thoa trong quản lý nhà nước của hai Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công Tthương về phân bón, trong đó phân bón vô cơ và phân bón hữu cơ, cũng như những nội dung tôi đã trình bày với Quốc hội về những biện pháp khắc phục trong thời gian tới.

Tôi xin báo cáo thêm với Quốc hội, trên thực tế như đại biểu Sỹ Cương có nói đã có sự tồn tại, thậm chí những sai phạm và vi phạm trong các hoạt động về sản xuất kinh doanh phân bón, cụ thể các mặt hàng phân bón giả, phân bón kém phẩm chất và có vai trò của quản lý nhà nước. Ở đây trong việc chỉ định cho các tổ chức xác nhận, cả việc công bố về hợp quy thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có chủ động tổ chức thanh tra và phát hiện ra những sai phạm trong việc tổ chức thực hiện những chức năng quản lý nhà nước này. Chính đây là một nguyên nhân làm cho thị trường phân bón tiếp tục bị phân bón giả và phân bón kém phẩm chất hoành hành. Đối với Bộ Công Thương, chúng tôi cũng không phủ nhận, thực tế cũng đã có những dấu hiệu này trong quản lý nhà nước đối với phân bón vô cơ.

Báo cáo với đại biểu Sỹ Cương và Quốc hội, sau khi có những thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức thanh tra trong hoạt động về chỉ định các tổ chức xác nhận về phân bón, chúng tôi đã tiếp thu những thông tin của đại chúng cũng như kinh nghiệm thực tế của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và tổ chức kiểm tra trong các hoạt động của các cơ quan chức năng của Bộ Công thương. Trên thực tế, chúng tôi đã kiểm tra qua 2 đợt trong tháng 5, tháng 6 năm 2016 và đến nay không phải không phát hiện ra sai phạm và vi phạm mà thực tế chúng tôi đã phát hiện có 2 trong số mười mấy tổ chức được chứng nhận xác nhận có sự vi phạm trong thực hiện những hoạt động về chứng nhận sản xuất phân bón cũng như công bố về hợp quy. Chúng tôi đã tiến hành rút lại giấy phép cho các tổ chức đó và đồng thời cũng có yêu cầu với các đơn vị chức năng phối hợp để xử lý các hậu quả và hệ quả có thể gây ra từ việc hủy bỏ chức năng và giấy phép đó của hai tổ chức xác nhận.

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã chủ động giao cho các đơn vị trong bộ khẩn trương rà soát kiểm tra lại toàn bộ hệ thống căn cứ các quy định của pháp lý để thực hiện các nhiệm vụ về chỉ định các tổ chức xác nhận cũng như các tổ chức về công bố hợp quy, sắp tới trong khuôn khổ về những biện pháp để siết chặt lại và tổ chức lại quản lý nhà nước đảm bảo hiệu quả về thị trường phân bón từ sản xuất cho đến kinh doanh. Chúng tôi sẽ đưa những nội dung này vào bao gồm cả những nội dung tiếp tục điều chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu hoặc không phù hợp. Đặc biệt, như tôi đã báo cáo xây dựng hệ quy chuẩn quốc gia cũng như hệ tiêu chuẩn để đảm bảo chúng ta sẽ ổn định được các mặt hàng phân bón cho dù đó là vô cơ hay hữu cơ hay các loại phân bón khác để đảm bảo lợi ích của người dân, người tiêu dùng và đảm bảo được vấn đề về môi trường.

Còn biện pháp trước mắt, ngoài việc hoàn thiện sớm hệ thống quy chuẩn bao gồm 8 quy chuẩn mới để gửi cho Bộ Khoa học và Công nghệ để thẩm định, phê duyệt, chúng tôi tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để ổn định trong việc quản lý cả với phân bón vô cơ và hữu cơ, đặc biệt là trong đó có chương trình phối hợp công tác giữa 2 bộ và tổ chức phân cấp cho chính quyền các địa phương trong thực hiện quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương.

Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã chỉ đạo cho Ban 389 của Bộ Công Thương và các lực lượng chức năng tổ chức kiểm tra các hoạt động sản xuất phân bón và kinh doanh phân bón trên địa bàn trọng điểm TP.HCM, một số quận, huyện cụ thể và đã phát hiện trên địa bàn có rất nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh, riêng một quận có tới hơn 43 tổ chức sản xuất kinh doanh phân bón, sản xuất phân bón ở quy mô nhỏ lẻ và có việc không chấp hành đầy đủ pháp luật. Bộ đang chỉ đạo quản lý thị trường cùng các lực lượng chức năng tiến hành xử lý vi phạm hành chính và căn cứ theo sự vi phạm để có thể phối hợp với chính quyền địa phương xử lý theo pháp luật. Đồng thời, xem xét trách nhiệm và yêu cầu chính quyền địa phương thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong quản lý các hoạt động sản xuất phân bón ở tại địa phương cũng như kinh doanh phân bón.

Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương – Đoàn Quảng Bình:

Trong Báo cáo của Chính phủ có nêu nguyên nhân của những dự án thất bại là do việc chuẩn bị phê duyệt các dự án một cách sơ sài, hình thức để được ghi vốn theo kế hoạch quyết định đầu tư một cách không tính toán đầy đủ, cân đối vốn dẫn đến bổ sung điều chỉnh nhiều lần vào vốn, đầu tư không hiệu quả. Tôi đề nghị Bộ trưởng cần phải phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ cùng với Chính phủ để có giải pháp phối hợp giải quyết trong thời gian tới. Tôi muốn Bộ trưởng làm rõ thêm sau 5 dự án đó thì còn bao nhiêu dự án vừa và nhỏ khác đầu tư thất thoát vốn. Câu hỏi thứ hai, việc bán hàng đa cấp xảy ra trong một thời gian dài thì trách nhiệm của Bộ đến đâu mà đến bây giờ mới xử lý khi thất thoát rất lớn?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương đoàn Quảng Bình nêu lên những giải pháp cần triển khai thực hiện trong thời gian tới để đảm bảo hiệu quả của quản lý nhà nước, đặc biệt với các nguồn lực đầu tư công, nguồn lực công phục vụ cho đầu tư kể cả thông qua các doanh nghiệp của nhà nước. Như chúng tôi đã báo cáo chúng ta đang cần phải xem xét, rút kinh nghiệm từ những dự án này, từ những bài học này để có trước tiên hoàn thiện về mặt thể chế cũng như khuôn khổ pháp lý để đảm bảo phân cấp và làm rõ rách nhiệm và những quy trình để đảm bảo hiệu quả và hiệu lực quản lý, nhất là đối với đồng vốn của nhà nước, trong đó cơ quan của Chính phủ, cơ quan của nhà nước quản lý và đại diện cho phần chủ sở hữu của nhà nước tại các doanh nghiệp là yếu tố đầu tiên cần phải đảm bảo. Đi cùng với đó là khuôn khổ pháp lý để đảm bảo hiệu lực của cơ quan này trong quản trị vốn của Nhà nước ở tại các doanh nghiệp. Đảm bảo cho sự phát triển cũng như hiệu quả của phát triển trong các lĩnh vực kinh tế ngành.

Đồng thời, chúng tôi cũng đồng tình ý kiến của đại biểu Phương với các bộ có liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ chủ quản cần phải tiếp tục làm rành mạnh rõ ràng các quy định của pháp lý trong các khía cạnh quản lý của doanh nghiệp cũng như quản lý các quy trình đầu tư và đây là bài học kinh nghiệm rất lớn. Không chỉ có các dự án đầu tư công mà ngay cả các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế khác cũng cần phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của chúng ta trong quản lý các dự án đầu tư đó. Vì nó không chỉ là vấn đề hiệu quả đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội mà còn là vấn đề về môi trường, là vấn đề về bền vững và nhiều ý nghĩa khác nữa.

Về bán hàng đa cấp:Chúng tôi xin được phép báo cáo với các đại biểu, thực tế bán hàng đa cấp đã được cấp phép khi chúng ta tham gia làm thành viên của WTO - Tổ chức thương mại thế giới. Trong thời gian vừa qua bán hàng đa cấp chính là việc thực hiện thông qua các khung khổ pháp lý từ năm 2014 và đã được sửa theo hướng thắt chặt hơn, nhưng tuy nhiên qua quá trình thực hiện các nội dung quy định của pháp lý từ năm 2014 đến năm 2016 đã bộc lộ ra một số các vấn đề trong quản lý nhà nước điều chỉnh và chế tài các hoạt động của bán hàng đa cấp. Tập trung vào ba lĩnh vực:

Một là,các khuôn khổ pháp lý chưa đầy đủ và chưa hoàn thiện.

Hai là,công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp chưa thực sự bài bản và chưa có sự phân công rạch ròi và đảm bảo hiệu quả của các cấp. Bởi vì quản lý bán hàng đa cấp theo quy định của các nghị định và thông tư hướng dẫn được phân cấp cho chính quyền của địa phương và Sở Công Thương tại các địa phương để quản lý trực tiếp các hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp.

Ba là,chúng ta sẽ phải nhìn nhận, đó là bán hàng đa cấp có một sức hút rất lớn đối với đại bộ phận người dân, bởi vì có những hành vi cố tình tuyên truyền làm sai lạc về bản chất của bán hàng đa cấp. Hướng vào những lợi nhuận siêu khủng để thu hút vào một bộ phận rất lớn những người dân của chúng ta tham gia bán hàng đa cấp và biến tướng của đa cấp trở thành những hình thức kinh doanh tài chính trái phép cũng như kinh doanh ảo để gây ra những nguy cơ thất thoát và mất mát tài sản của xã hội rất lớn. Chính vì vậy, Bộ Công Thương ngay cuối năm 2015, sau khi thực hiện bắt đầu nhận thấy có những vấn đề bộc lộ trong bất cập của hệ thống khuôn khổ pháp lý đã tiến hành tổ chức, kiểm tra, đánh giá. Và với sự phát hiện của dư luận xã hội, của báo chí thì từ đầu cuối năm 2015 đã tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật với bán hàng đa cấp ở tại các địa phương và phát hiện hàng loạt các doanh nghiệp ngoài việc không chấp hành pháp luật còn có hiện tượng gian dối, lợi dụng, trục lợi của bán hàng đa cấp để phục vụ hoạt động thu lợi bất chính.

Cụ thể, đầu năm 2016 Bộ Công Thương ban hành 2 chỉ thị với những biện pháp cụ thể, tăng cường kiểm tra và phối hợp cùng chính quyền địa phương, chỉ đạo Sở Công Thương tại các địa phương làm đầu mối kiểm tra bán hàng đa cấp tại địa phương. Tính đến nay, từ 67 doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã rút giấy phép 25 doanh nghiệp bán hàng đa cấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thu lợi bất chính và có hành vi lừa đảo, trục lợi.

Bên cạnh đó, đã xử phạt hơn 14 doanh nghiệp bán hàng đa cấp có mức độ vi phạm pháp luật. Đồng thời, Bộ Công Thương đã nhìn nhận trách nhiệm của mình trong việc tiếp tục nghiên cứu và báo cáo với Chính phủ, đề nghị sửa đổi Nghị định 42 về quản lý bán hàng đa cấp cũng như các thông tư hướng dẫn để khắc phục những tồn tại, bất cập mà các cơ quan quản lý của chúng ta chưa làm được, nhất là trong phân cấp ở địa phương.

Bốn là, những mặt yếu kém trong công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin để xã hội hiểu và quản lý cũng như tham gia hoạt động đa cấp một cách phù hợp với quy định của luật pháp và đúng như bản chất của hoạt động cũng cần được quan tâm và nêu lên trong chương trình hoạt động trong thời gian sắp tới. Đặc biệt, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị mới về hoạt động bán hàng đa cấp, quản lý bán hàng đa cấp cũng nêu rõ những nhiệm vụ các bộ, ngành, trong đó có Bộ Công Thương.

Năm là, về trách nhiệm của Bộ Công thương trong việc chậm phản ứng chính sách và chưa ban hành kịp thời những nội dung sửa đổi, điều chỉnh của khuôn khổ pháp lý cũng như thực hiện các chức năng. Chúng tôi đang tiếp tục xem xét và sẽ có hướng làm rõ trong thời gian tới. Trước mắt, cần tiếp tục tập trung vào những giải pháp để đảm bảo hiệu quả quản lý bán hàng đa cấp, nhất là bán hàng đa cấp có những dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc lừa đảo, sẽ làm nghiêm vấn đề này.

Đại biểu Nguyễn Chiến – Đoàn Hà Nội:

Để bảo đảm cho quy trình xả lũ được hoàn thiện liên quan đến trách nhiệm của Bộ Công thương là đơn vị đã phê duyệt quy trình này, nhằm mục đích làm sâu sắc và cụ thể hơn, giúp cho bộ có giải pháp để hoàn thiện quy trình, tránh tình trạng xả lũ tiếp theo gây hại cho người dân. Tôi xin hỏi Bộ trưởng, thưa Bộ trưởng tại Báo cáo số 107 ngày 31/10/2016 gửi Chính phủ về việc kiểm tra vận hành xả lũ của các hồ thủy điện tại khu vực miền Trung từ 13/10 đến 16/10/2016, Bộ Công thương khẳng định việc xả lũ của thủy điện Hố Hô là phù hợp quy trình vận hành hồ chứa do Bộ Công thương phê duyệt tại Quyết định số 2365 ngày 19/5/2009.

Tuy nhiên, tại báo cáo này Bộ Công thương cũng kết luận trách nhiệm của Công ty cổ phần điện hồ 4 là chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm ngặt quy trình tại quy trình vận hành hồ chứa về trách nhiệm thông tin, báo cáo theo Khoản 2, Khoản 4, Điều 16 và Điều 21 quy trình vận hành. Như vậy, khi chủ đập thủy điện vi phạm các quy trình của quy trình vận hành hồ chứa theo điều khoản mà Bộ đã viện dẫn thì tại sao Bộ Công thương vẫn kết luận việc xả lũ là phù hợp, đúng quy trình.

Cử tri cho rằng nguyên nhân gây thiệt hại tại quy trình vận hành hồ chứa thủy điện Hố Hô do Bộ Công thương phê duyệt không có quy định về thời gian báo trước bao lâu đối với việc xả lũ để cho địa phương phối hợp di dời người và tài sản tránh thiệt hại. Vậy, Bộ Công thương có trách nhiệm gì trong việc xử lý đối với tập thể, cá nhân có liên quan và có trách nhiệm gì đối với việc chủ trì xây dựng, phê duyệt quy trình vận hành mang tính lý thuyết trên giấy không thực tiễn dẫn đến khi triển khai gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản cho người dân vùng hạ du?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đối với câu hỏi của đại biểu Chiến đoàn Hà Nội liên quan đến vấn đề xả lũ, chúng tôi xin báo cáo, vì đây là nội dung đã được giải thích nhiều, chúng tôi xin báo cáo đầy đủ bằng văn bản gửi đến đại biểu Chiến cũng như các đại biểu Quốc hội có quan tâm trên cơ sở cập nhật, kiểm tra đầy đủ lại các thông tin liên quan đến trường hợp cụ thể mà các đại biểu đã nêu, chúng tôi xin báo cáo bằng văn bản.

Đại biểu Nguyễn Bá Sơn – Đoàn TP Đà Nẵng:

Ở TP.Đà Nẵng toàn bộ nguồn nước sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của người dân đều lấy từ nguồn nước tự nhiên từ sông Vu Gia. Tuy nhiên, từ năm 2012 cho đến nay hiện tượng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước ở dòng này và kèm theo đó hiện tượng xâm nhập mặn ngày càng sâu và có hiện tượng trở thành hiện tượng phổ biến và các đợt xâm nhập mặn kéo dài có khi đến cả tháng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống sinh hoạt của nhân dân ở thành phố Đà Nẵng và 1,7 triệu dân ở vùng hạ du sông Vu Gia. Nguyên nhân là do thủy điện Đắk Mi 4 đã lấy dòng chảy từ sông Đắk Mi mà lẽ tự nhiên là nó chảy về Vu Gia thì Đắk Mi 4 đã đưa chuyển về sông Thu Bồn để phục vụ cho việc phát điện và tối ưu hóa lợi ích của mình mà không trả lại dòng chảy về Sông Vu Gia theo như quy định của Thủ tướng Chính phủ và của quy trình vận hành liên hồ ở khu vực này.

Về vấn đề này lãnh đạo hai địa phương Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng cũng như Bộ Công thương trực tiếp là đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, trực tiếp là Cục quản lý tài nguyên nước đã có ý kiến, nhưng Đắk Mi 4 đã không thực hiện đúng theo yêu cầu của cấp trên, cũng như quy trình của Thủ tướng Chính phủ.

Vấn đề là ở chỗ rõ ràng Đắk Mi 4 đã vi phạm quy định của Thủ tướng Chính phủ và không quan tâm đến lợi ích của người dân ở thành phố Đà Nẵng cũng như 1,7 triệu dân ở khu vực hạ du sông Vu Gia. Vấn đề này cử tri thành phố Đà Nẵng mong muốn nhận được câu trả lời của Bộ trưởng rằng là Bộ trưởng sẽ xử lý vấn đề này như thế nào?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đối với câu hỏi của đại biểu Nguyễn Bá Sơn đoàn Đà Nẵng nói về thủy điện Đakmi 4 về việc nước không điều hòa tốt, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của nhân dân ở Đà Nẵng cũng như đảm bảo yêu cầu chung trong phát triển bền vững. Chúng tôi xin báo cáo thủy điện Đakmi 4 đã có quy trình điều hành liên hồ, hồ chứa thủy lợi và thủy điện, cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương cũng tham gia điều hành cái này.

Trên thực tế, qua báo cáo và ý kiến đại biểu Quốc hội phản ánh, chúng tôi được biết trong thời gian qua, hoạt động điều hòa nước trên sông Thu Bồn của dự án này có những vướng mắc, gây bất cập và gây phản ứng của nhân dân cũng như các địa phương. Vì đây là vấn đề tương đối cụ thể, tôi chưa có điều kiện để nắm sâu và đầy đủ thông tin về vấn đề này, chúng tôi cam kết sẽ cho kiểm tra, đánh giá và báo cáo lại với đại biểu Quốc hội. Nếu có sự không chấp hành, không đáp ứng đúng yêu cầu, quy định của pháp luật thì cũng sẽ có xem xét trách nhiệm của các cấp và các cơ quan có liên quan.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa, đoàn TP.HCM:

Hiện nay đang tồn tại thực tế bất hợp lý là các ngành cơ khí lắp ráp điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất máy móc nông nghiệp, thuế nhập khẩu nguyên chiếc bằng 0 trong khi đánh thuế nguyên, phụ liệu, linh kiện đầu vào sản xuất trong nước. Qua đó, chúng ta đang khuyến khích nhập khẩu trong nước. Cũng như vậy, việc miễn thuế VAT đầu vào thay vì áp dụng thuế suất 0% làm thương tổn các ngành sản xuất phân bón, thức ăn gia súc, máy móc nông nghiệp vì họ không được khấu trừ VAT đầu vào. Vô hình trung chúng ta đã khuyến khích nhập khẩu các sản phẩm này.

Chính sách thuế như vậy trái với đường lối tái cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Xin Bộ trưởng cho biết quan điểm và giải pháp của Chính phủ và Bộ trưởng về việc bảo hộ hợp pháp và hợp lý sản xuất thị trường và người tiêu dùng nội địa, tránh việc hơn 90 triệu dân nước ta đang trở thành thị trường béo bở cho hàng nhập khẩu rẻ tiền, chất lượng thấp của Trung Quốc và các nước ASEAN khác đang tràn ngập và từng bước giết chết hàng nội địa như hiện nay.

Tôi xin lưu ý thứ nhất, bảo hộ là bảo hộ hợp pháp, tức là phải đúng cam kết Quốc tế, bảo hộ hợp lý là chúng ta không bảo hộ các doanh nghiệp quản lý kém hiệu quả, thua lỗ, tham nhũng để bắt dân chúng ta phải trả giá cao cho thua lỗ, tham nhũng đó. Tôi lưu ý bảo hộ cả sản xuất nội địa, cả thị trường nội địa và cả người tiêu dùng nội địa. Mong được câu trả lời của Bộ trưởng cho tình hình bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp sản xuất nội địa trong nước cũng như của cử tri.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Về ý kiến của đại biểu Trương Trọng Nghĩa TP HCM về các chính sách phục vụ phát triển cơ khí lắp ráp cũng như các ngành công nghiệp ô tô... thông qua chính sách thuế. Đây là chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế một cách toàn diện và bền vững trong nước. Các công cụ, chính sách của chúng ta bao gồm các chính sách về thuế phù hợp, trên cơ sở cam kết hội nhập quốc tế của chúng ta cần được ưu tiên, xem xét. Bản thân chiến lược công nghiệp ô tô cũng như chính sách cụ thể phát triển công nghiệp hỗ trợ và một số ngành khác, Bộ Công Thương đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này để tập trung khai thác các nguồn lực và tạo điều kiện thu hút các nguồn lực của xã hội, đặc biệt từ khu vực doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp còn non trẻ, còn yếu kém của chúng ta.

Trong quá trình xây dựng chính sách, từ sau khi có các khung pháp lý từ luật đến nghị định, nhất là nghị định về công nghiệp hỗ trợ, chúng tôi cũng phối hợp theo sự chỉ đạo của Thủ tướng phối hợp cùng các cấp bộ, ngành có liên quan, nhất là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tiếp tục cụ thể hóa bằng các chính sách.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chính sách, các vấn đề cụ thể về các sắc thuế, có những phương án tính toán để cân đối chung. Vì vậy, ở đây có các đồng chí lãnh đạo của Bộ Tài chính, chúng tôi đề nghị các đồng chí cung cấp thêm các thông tin, tư liệu liên quan đến việc xây dựng và biểu thuế cũng như chính sách về thuế để đảm bảo những yêu cầu hài hòa của nền kinh tế. Trong đó, lưu ý phát triển các ngành công nghiệp, kinh tế của chúng ta cũng như bảo vệ, bảo hộ một cách chính đáng các ngành sản xuất và thị trường trong nước một cách phù hợp để các đại biểu có điều kiện tham khảo.

Riêng đối với quan điểm về phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, chúng tôi có quan điểm trình bày là quan điểm của Bộ Công thương mong muốn có chính sách thuế phù hợp để đảm bảo điều kiện cho các ngành phát triển, nhất là thông qua việc các sắc thuế, biểu suất thuế của thuế nhập khẩu, các linh kiện trong nước chưa sản xuất được để phục vụ phát triển công nghiệp trong nước nên được xem xét và điều chỉnh cho phù hợp so với linh kiện, chi tiết lắp ráp của các bộ phận nhập khẩu từ bên ngoài. Vì vậy, quan điểm của Bộ Công thương là sẽ tiếp tục nghiên cứu, lắng nghe những ý kiến của thực tế và điều kiện phát triển trong nước để tiếp tục phối hợp cùng Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội về thông qua sắc thuế cho phù hợp.

Đại biểu Vũ Thị Nguyệt – Đoàn Hưng Yên:

Bộ Công Thương tham mưu quy hoạch điện quốc gia. Tuy nhiên Quốc hội khóa 13 đưa ra khỏi quy hoạch nhiều dự án. Quốc hội khóa 14 dừng điện hạt nhân. Với nguồn điện than không nhiều, khai thác khó khăn. Nhập khẩu than, chưa kể tác động xấu đến môi trường. Trách nhiệm của trưởng đến đâu khi nhiều dự án điện bị dừng? Bộ Công Thương cân đối nguồn điện như thế nào?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đúng như đại biểu Vũ Thị Nguyệt đề cập: Về quy hoạch điện quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đang có những điều chỉnh lớn liên quan nguồn điện, ví dụ như điện hạt nhân…, chúng ta khai thác gần như đến hết tiềm năng của thủy điện. Rồi cũng như nhiệt điện than đang gặp khó khăn do vấn đề nhập khẩu than, cũng như hạ tầng phục vụ cho nhập khẩu than... Quan điểm của Bộ Công Thương cũng như chỉ đạo của Chính phủ rất rõ ràng là bằng mọi giá phải đảm bảo được cân đối cung cầu điện, nhất là nhu cầu điện cho phát triển kinh tế và nhu cầu đời sống xã hội của nhân dân và đất nước nhất là trong bối cảnh chúng ta đang hội nhập sâu rộng. Bằng mọi phương án, chúng ta phải xây dựng được những tổng sơ đồ về năng lượng có tính cách không chỉ giải quyết những bức xúc và yêu cầu trước mắt và tốc độ tăng trưởng của điện lực, của năng lượng phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế về GDP theo như mục tiêu kế hoạch Quốc hội đã thông qua mà còn hướng đến sự phát triển bền vững nền kinh tế và trên cơ sở nền tảng của nền năng lượng xanh và sạch. Vì vậy, chúng ta sẽ phải cân đối giữa nguồn phát, nguồn điện khác nhau từ điện than, điện khí, thủy điện rồi điện năng lượng tái tạo trong đó có điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối...

Mặc dù, điện than còn bộc lộ ra một số vấn đề liên quan đến nhập khẩu than, liên quan đến vấn đề môi trường trong các dự án nhiệt điện than. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong các phát triển về năng lượng, nhất là điện than và lưu ý đảm bảo công nghệ và phương án để xử lý triệt để và đến mức tối đa của các vấn đề xả thải, cho thải của khí thải và nước thải của các nhà máy nhiệt điện than dựa trên nền tảng những công nghệ mới thế giới để đảm bảo hiệu quả trong cung ứng năng lượng thông qua điện than cũng như đảm bảo bảo vệ môi trường trong dự án điện than.

Về vấn đề này, vì thời gian có hạn, chúng tôi xin báo cáo thêm với các đại biểu Quốc hội về những phương án và những nội dung cụ thể liên quan đến cân đối cung cầu năng lượng trong các tổng sơ đồ tiếp theo cũng như các phương án để đảm bảo về môi trường.

Một nội dung quan trọng trong phương án phát triển của chúng ta trong các chiến lược năng lượng cũng như phát triển về kinh tế - xã hội chính là phải hướng vào nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thông qua đổi mới mô hình kinh tế. Đặc biệt đổi mới các công nghệ sử dụng năng lượng, đảm bảo yêu cầu về tiết kiệm điện năng cũng như quản trị doanh nghiệp trong các lĩnh vực về năng lượng cũng như các lĩnh vực có liên quan để đảm bảo hiệu quả chung trong sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả mà luật Quốc hội đã thông qua, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã ban hành. Xin cảm ơn đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Nguyễn Tạo – Đoàn Lâm Đồng:

Tôi có 2 nội dung quan tâm xin đặt vấn đề với đồng chí Bộ trưởng. Vấn đề thứ nhất, tiếp tục rà soát, kiểm tra các công trình kém hiệu quả thuộc ngành mình quản lý, đó là các công trình đã, đang và sẽ triển khai thực hiện nhằm triển khai thực hiện tốt nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, trong đó có một nội dung hết sức quan trọng là tập trung chỉ đạo có biện pháp xử lý sớm các dự án có sử dụng vốn nhà nước đầu tư lãng phí, kém hiệu quả, làm rõ và xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan. Vấn đề này nhằm tạo niềm tin cho nhân dân đối với việc lập lại trật tự, kỷ cương về đầu tư công và các đầu tư khác của các thành phần kinh tế khác. Do đó, với tư cách là Bộ trưởng, tư lệnh của ngành, với trách nhiệm của mình đối với các công trình thuộc ngành quản lý, đồng chí có giải pháp và giải quyết vấn đề này trong thời gian tới như thế nào?

Vấn đề thứ hai, tôi thống nhất rất cao với phát biểu của đại biểu Trương Trọng Nghĩa Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề bảo hộ thương mại hợp pháp đối với thị trường trong nước, người sản xuất và người tiêu dùng. Phải nói rằng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong những năm qua đã và đang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Theo thống kê của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì năm 2015 tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đạt 66,6 tỷ đôla, tăng 13,4% so với năm 2014, trong đó tôi quan tâm về vấn đề nhập siêu tới 32 tỷ và vài tháng đầu năm 2016 đạt 32, 4 tỷ USD tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2015.

Với dự định thương mại hai chiều có nhiều thuận lợi đột biến xong có nhiều tiềm ẩn, rủi ro, vậy với người có kinh nghiệm trong hoạt động xúc tiến thương mại nhiều năm, nhằm bảo đảm ổn định và phát triển quan hệ thương mại về lâu dài và hạn chế các rủi ro thấp nhất đối với phía Việt Nam, theo Bộ trưởng cần có những giải pháp và đột phá gì trong thời gian tới đối với vấn đề quan trọng này.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Như chúng tôi trình bày: 5 dự án này chúng ta đang tiếp tục có đánh giá tổng hợp, toàn diện các khía cạnh của dự án, cả về tính khả thi, cả về những vấn đề đang tồn tại, vướng mắc, đặc biệt là có dấu hiệu của vi phạm để chúng ta có hướng xử lý và cả về giải pháp cho dự án cũng như các biện pháp xử lý. Thế thì, về cụ thể chúng tôi cũng xin báo cáo Quốc hội thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Công thương cùng các bộ, ngành, chúng tôi sẽ tiếp tục làm rõ và tổng hợp, sau đó có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng để báo cáo Quốc hội sau.

Đối với những biện pháp và giải pháp sắp tới thì như chúng tôi đã trình bày, có hàng loạt nội dung lớn liên quan đến quản lý nhà nước, liên quan đến thể chế, liên quan cơ chế chính sách và nhất là các khuôn khổ pháp lý, rồi cả những vấn đề liên quan đến yếu tố con người trong trách nhiệm các cơ quan quản lý kể cả quản lý nhà nước lẫn cả quản trị doanh nghiệp. Chúng ta đều cần làm rõ và sắp tới sẽ có những tổng thể về các phương án mà Chính phủ sẽ chỉ đạo thông qua. Trong đó, mỗi bộ, ngành phải có trách nhiệm của mình để đóng góp vào các giải pháp cho các phương án đó cũng như giải pháp lâu dài trong khu vực pháp lý và thể chế.

Đối với Bộ Công Thương, chắc chắn chúng tôi với góc độ của một Bộ trong các lĩnh vực đa ngành rất rộng của nền kinh tế thì chắc chắn tôi sẽ có sự chủ động trong rút kinh nghiệm và rà soát đánh giá lại tất cả các dự án đó. Thực tế, việc này vẫn đang được tiến hành thông qua hàng loạt các dự án cụ thể và của các tập đoàn, Tổng công ty 91 mà bây giờ theo Nghị định 99 đang đặt dưới sự quản lý và quản trị của Bộ Công Thương thì chúng tôi sẽ tiếp tục làm rõ và đánh giá chung tổng thể để có báo cáo kịp thời, nếu như có những vấn đề phát sinh. Nếu không cũng đảm bảo được yêu cầu trong chủ trương đầu tư và trong việc tổ chức thực hiện. Đối với vai trò quản lý nhà nước thì bản thân Bộ Công Thương chúng tôi cũng đang chủ động nghiên cứu và tổ chức đánh giá lại chất lượng của công tác quản lý nhà nước bao gồm từ xây dựng các quy hoạch, các chiến lược phát triển lẫn đến cả chủ trương đầu tư rồi xây dựng các khung khổ chính sách để phục vụ cho điều hành của Chính phủ, điều hành các hoạt động của nền kinh tế, đất nước.

Một trong những vấn đề mà các đại biểu Quốc hội đã đề cập đến nhiều là chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật và của Bộ Công Thương cũng như Bộ ngành xây dựng còn có nhiều vấn đề chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và thực tiễn nhất là các hoạt động của doanh nghiệp và thành phần kinh tế xã hội.... chưa kể đến của nhân dân. Đây là nội dung ưu tiên trong nhiệm kỳ công tác này của Bộ trưởng Bộ Công Thương và các bộ, chúng tôi sẽ tập trung quyết liệt để thực hiện nhiệm vụ đó.

Vấn đề thứ hai đại biểu đề cập đến quan hệ giữa ngoại thương Việt Nam với Trung Quốc, tình trạng nhập siêu còn đang tiếp tục tồn tại ở mức cao, cũng như quan điểm, giải pháp để chúng ta khắc phục vấn đề này. Quan điểm của Việt Nam trong hội nhập và phát triển là chúng ta luôn luôn đa phương, đa dạng hóa các mối quan hệ. Ngay trong quan hệ về thương mại, chúng ta cũng hướng tới những mối quan hệ thương mại bền vững và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Đặc biệt, phải đảm bảo ngày càng nâng cao hơn nữa những năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất của nền kinh tế cũng như phục vụ cho nhu cầu của đời sống nhân dân. Ngay trong nội hàm này cũng giải chứa những câu trả lời cho câu hỏi làm sao để cân bằng được cán cân thương mại, giảm nhập siêu và cân bằng thương mại của chúng ta với các đối tác.

Cách duy nhất là chúng ta phải tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành mà có nhiều biện pháp, chủ trương, chính sách của chúng ta cần hướng vào đó. Nhưng mục tiêu chúng ta phải sòng phẳng và bình đẳng trong hội nhập với thế giới và chúng ta cạnh tranh được thông qua quy cách, phẩm chất, chất lượng, giá thành của các sản phẩm của nền kinh tế, cũng như của doanh nghiệp. Chúng ta phải ổn định và có mô hình tăng trưởng tốt để đảm bảo phát triển bền vững của ngoại thương cũng như nội thương của thị trường nội địa, nhất là khi chúng ta hội nhập sâu, rộng như vậy.

Vì vậy, quan điểm của chúng ta là đối tác của Trung Quốc và các nước láng giềng, chúng ta có những lợi thế nhất định, những ưu thế và những điều kiện để tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác kinh tế nói chung, cũng như thương mại nói riêng. Chúng ta phải tiếp tục khai thác những tiềm năng, cơ hội đó. Ví dụ, trong khai thác thị trường, đây là thị trường rất lớn nhưng chúng ta chưa thâm nhập được sâu, chúng ta chưa cung ứng được các mặt hàng, sản phẩm có điều kiện có năng lực cạnh tranh. Mặc dù, năm nay sản phẩm của ngành nông nghiệp, nông sản của chúng ta có mức độ tăng trưởng cao hơn bao giờ hết trong những năm gần đây với mức độ tăng trường của 9 tháng đầu năm là 9,7% trong đó có những sản phẩm chúng ta rất tự hào như Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển vẫn hay trích dẫn là từ trái cây, rau quả, thịt lợn chúng ta xuất khẩu sang Trung Quốc. Tuy nhiên, đã là bền vững hay chưa thì chúng ta khẳng định cần thời gian và tái cơ cấu nông nghiệp, ổn định sản xuất và đặc biệt nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là những nhiệm vụ lớn đặt ra cho nền kinh tế chiến lược xuất khẩu bền vững cũng như trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Chúng ta vẫn tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, thông thoáng cho tất cả các thành phần kinh tế, giúp năng lực sản xuất của chúng ta được khai thác, đưa vào phát triển, phục vụ việc nâng cao năng lực và quy mô của nền kinh tế.

Ngoài ra, chúng ta phải tiếp tục tăng cường hướng tới việc đổi mới mô hình tăng trưởng, nhất là thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua các hệ thống quy cách phẩm chất và đặc biệt các khung pháp lý của chúng ta liên quan đến quy chuẩn, tiêu chuẩn chúng ta đã bàn như trong vấn đề phân bón. Chỉ có đáp ứng được những yêu cầu như vậy thì các sản phẩm của chúng ta, của các chuỗi sản phẩm trong nước mới đáp ứng được yêu cầu trong cạnh tranh cả ở trong nước lẫn quốc tế.

Đây cũng là những nhiệm vụ của Bộ Công thương cần phải cụ thể hóa theo các chiến lược đó, kể cả trong những chiến lược xây dựng những khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế qua biên giới hoặc cũng như các trung tâm logistic lớn cũng như việc tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia với những trọng tâm, trọng điểm và đặc biệt cùng phối hợp với các bộ, ngành để chúng ta tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp, cơ cấu lại các ngành sản xuất...

Xin phép báo cáo với đại biểu vì không có thời gian và đây là những vấn đề rất lớn, với những nội hàm có thể trải rộng, vì vậy chúng tôi xin phép sẽ gửi các báo cáo tổng hợp về vấn đề này đến các đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Phạm Thị Minh Hiền – Đoàn Phú Yên:

Vừa qua, sự cố về môi trường của 4 tỉnh miền trung do Formosa gây ra là một bài học xương máu. Khi trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan chưa được làm rõ một cách quyết liệt thì Bộ Công thương tiếp tục bổ xung quy hoạch dự án thép Cà Ná của tập đoàn Hoa Sen tại Ninh Thuận. Điều bất thường là dự án này không nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt trước đó. Bất chấp sự phản đối gay gắt của dư luận, bất chấp sự lo lắng, hoang mang của người dân và bất chấp sự phản biện, cảnh báo mạnh mẽ của các chuyên gia kinh tế môi trường về nguy cơ ô nhiễm môi trường biển, không chỉ ở vùng biển Ninh Thuận mà còn ảnh hưởng các vùng biển lân cận trong đó có Khánh Hòa, có Phú Yên. Tôi đề nghị Bộ trưởng hãy trả lời thẳng, trả lời thật với cử tri cả nước những vấn đề sau:

Dù chỉ là bổ sung quy hoạch nhưng dự án đãđi ngược lại với chủ trương của Chính phủ là đánh đổi môi trường. Một, vậy có hay không việc xuất hiện lợi ích nhóm trong việc bổ sung quy hoạch dự án?

Hai, có hay không việc Bộ đang chạy theo doanh nghiệp để làm dự án. Đầu tư quy hoạch hay quy hoạch theo đầu tư. Với tư duy khoa học của các chuyên gia kinh tế, môi trường đã nhận định và cảnh báo về dự án này. Với hậu quả của người dân vô tội của các tỉnh miền trung đang nhận lấy và với phát biểu của Bộ trưởng về vấn đề phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường trong thời gian vừa qua. Đó là bất chấp việc đánh đổi hay hủy hoại môi trường là một tội ác. Vậy, việc bất chấp những phản biện khoa học, tâm huyết của các chuyên gia để cơ quan chức năng bổ sung quy hoạch dự án này có được xem là hành vi dẫn đến tội ác hay không?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đối với đại biểu Minh Hiền liên quan đến vấn đề thép Cà Ná. Xin được báo cáo với đại biểu Quốc hội, hiện nay Việt Nam chúng ta có trữ lượng quặng sắt khoảng 1,5 tỷ tấn, nhưng hàng năm chúng ta đang nhập khẩu từ nước ngoài lượng sắt thép để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, phát triển của đất nước khoảng 3 tỷ đô la và dự kiến đến năm 2020 chúng ta có thể nhập khẩu đến 15 tỷ đô la Mỹ về các sản phẩm của sắt thép. Hiện nay sắt thép của chúng ta mới chủ yếu đáp ứng được các sắt thép xây dựng, một số chủng loại sắt thép xây dựng cũng như các sắt thép chuyên ngành. Còn về các sắt thép cơ bản, đặc biệt thép thô để phục vụ cho các ngành về cán thép, luyện thép và cũng như phục vụ cho các sản phẩm đầu ra sắt các loại để phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế chúng ta hầu như chưa có, ngoại trừ một số các doanh nghiệp như Hòa Phát, các tổng công ty thép... cũng đã có một số dự án, tuy nhiên quy mô còn ở mức nhỏ.

Mỏ sắt Thạch Khê của chúng ta có quy mô lớn và có khả năng nếu được khai thác tốt các quặng sắt để đưa vào luyện của lò cao để phục vụ cho sản xuất thép thô, phục vụ cho cán thép và các ngành sản phẩm thép khác thì khả năng của chúng ta có thể đóng góp vào mức tăng trưởng hàng năm khoảng độ từ 0,3 - 0,4% điểm GDP.

Mục tiêu của chúng ta cũng phải đảm bảo bên cạnh sự ổn định phát triển về kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta phải đảm bảo sự ổn định phát triển của các ngành công nghiệp cơ bản, các ngành công nghiệp cơ khí, các ngành công nghiệp chế tạo, bao gồm cả các ngành công nghiệp quốc phòng. Chính vì vậy, chủ trương, quan điểm của Chính phủ là phát triển bền vững trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong các lĩnh vực về công nghiệp thì phải tiếp tục ưu tiên khai thác những nguồn tài nguyên và đảm bảo sự phát triển của các ngành công nghiệp cơ bản để tạo nền tảng cho phát triển các ngành kinh tế công nghiệp và các ngành kinh tế khác của chúng ta. Tất nhiên, tôi khẳng định lại một lần nữa ở đây chúng ta có thể dám khẳng định một cách công khai tại diễn đàn này, chúng ta không đánh đổi môi trường để lấy những dự án công nghiệp bằng mọi giá và cũng không có câu chuyện các dự án thép đưa ra đây để đánh đổi vấn đề về môi trường.

Tôi khẳng định luôn tại diễn đàn này cũng không phải là vấn đề lợi ích nhóm, tại sao lại là lợi ích nhóm ở đây nếu như chúng ta đang hướng tới phát triển một cách hài hòa và bền vững của các ngành kinh tế để chúng ta đảm bảo được nguyên liệu cho các ngành công nghiệp quan trọng của chúng ta khai thác một cách hợp lý và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Chúng ta đang hướng tới phát triển những tập đoàn, những doanh nghiệp của quốc gia để có điều kiện khai thác và phát triển tốt nếu như đáp ứng được những yêu cầu của phát triển, những yêu cầu của bảo vệ môi trường, tại sao chúng ta lại phải hạn chế điều đó. Chính vì vậy, chúng tôi khẳng định trong quá trình xây dựng quy hoạch, quy hoạch về ngành thép đã có từ những năm 2011 và dự án thép của Cà Ná tại Ninh Thuận đã được phê duyệt từ năm 2011 với dự án thép của Lian cùng phối hợp với Vinashines. Quy hoạch này đã được làm đầy đủ các quy trình, thủ tục, trong đó có cả phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ và có báo cáo DMC đánh giá về môi trường của quy hoạch. Vào những năm 2008 - 2009, dự án thép này không được tiếp tục thực hiện vì năng lực tài chính của chủ đầu tư có vấn đề sau khủng hoảng tài chính thì dự án này đã được đưa ra khỏi quy hoạch.

Tuy nhiên, vào thời điểm mới đây, cuối những năm 2015 dự án tiếp tục được nghiên cứu và Tập đoàn tôn Hoa Sen đã làm việc với Ninh Thuận đề xuất đưa vào trong quy hoạch thép mới. Đồng thời đề nghị xin chủ trương đầu tư để thực hiện dự án với những cam kết và đề xuất đảm bảo yêu cầu về môi trường, thông qua công nghệ và những nội dung của đầu tư. Bộ Công thương căn cứ trên những yêu cầu thực tiễn trong phát triển công nghiệp thép cũng như quy hoạch đã tổ chức khảo sát và làm việc với tỉnh Ninh Thuận đánh giá về hiện trạng khảo sát tại địa điểm và năng lực của nhà đầu tư. Chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội đây mới là điều chỉnh về quy hoạch và quy hoạch chỉ xây dựng trên cơ sở đánh giá về những lợi thế so sánh của chúng ta và phù hợp về mặt địa điểm để phục vụ cho phát triển của các dự án đầu tư, chứ không phải là dự án đầu tư đã được phê duyệt.

Báo cáo với Quốc hội, chúng ta nói về môi trường, chúng ta nói về địa điểm của Cà Ná, thậm chí có nhiều ý kiến nói rằng chúng ta có đánh đổi muối của Cà Ná để lấy thép hay không? Chúng tôi cho rằng, đây không phải là chuyện đánh đổi. Đây là quan điểm phát triển bền vững, quan điểm phát triển hài hòa của nền kinh tế khai thác những lợi thế của đất nước. Vì vậy, dựán thép Cà Ná đã được xem xét một cách cẩn trọng và đầy đủ các quy trình, sau đó đã được phê duyệt tại quy hoạch mới đây nhất về quy hoạch thép.

Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc đầu tư dự án này có hiệu quả và đảm bảo đặc biệt trên cơ sở bảo vệ được môi trường, Thủ tướng Chính phủ đã giao trách nhiệm cho các bộ, ngành phải phối hợp, làm rõ với chủ đầu tư, với địa phương về tất cả các chi tiết, nội dung liên quan đến các báo cáo tiền khả thi cũng như báo cáo khả thi của dự án. Có nghĩa rằng tất cả những chi tiết liên quan đến công nghệ, liên quan đến thiết bị, liên quan đến phương án xử lý chất thải, rác thải, cũng như phương án bảo vệ môi trường, hiệu xuất của dự án, kể cả hiệu xuất của năng lượng sử dụng và hàng loạt các vấn đề khác sẽ được xem xét, thẩm định và phê duyệt, lúc đó dự án mới có hiệu quả, có hiệu quả về mặt pháp lý.

Chính vì vậy, ở đây chúng tôi xin khẳng định các công tác liên quan đến điều chỉnh quy hoạch, quản lý quy hoạch, thực hiện quy hoạch được thực hiện nghiêm túc , đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật với sự tham gia của các bộ, ngành. Đặc biệt, ở đây chúng ta cũng khẳng định trong quá trình xây dựng, thực hiện các dự án, không chỉ có thép Cà Ná mà sẽ còn có dự án thép của Dung Quất mà mới đây tập đoàn đang đăng ký xin tham dự và sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cũng như các dự án thép khác trong quy hoạch về thép sẽ phải được đảm bảo thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, dựa trên những nguyên tắc của bảo vệ môi trường, những yêu cầu cao nhất trong vấn đề về bảo vệ môi trường và từ những bài học kinh nghiệm, chúng ta đã rút ra từ dự án thép của Formosa. Chúng tôi xin phép báo cáo sơ bộ như vậy với đại biểu, nhưng vì vấn đề còn nhiều nên nếu đại biểu thấy cần thiết chúng tôi cũng sẽ tiếp tục cung cấp đầy đủ các thông tin và báo cáo đến Quốc hội cũng như các đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa – Đoàn Thừa Thiên Huế:

Tôi thấy, một đất nước nhiệt đới, thiên nhiên ưu đãi về nông nghiệp và rất nhiều nông sản xuất khẩu, nhưng những năm gần đây Bộ Công thương vẫn cho nhập khẩu một số mặt hàng như ngô, đậu tương, đường, thịt gà, lợn, bò,... tác động không nhỏ đến kích cầu sản xuất và tiêu nhập của nông dân. Đề nghị Bộ trưởng cho biết, nhập khẩu các nông sản và thực phẩm trên có ảnh hưởng gì đến nền nông nghiệp Việt Nam hay không và Việt Nam chúng ta có sản xuất được các mặt hàng kia không? Câu hỏi này tôi hỏi đến Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và quan điểm của đồng chí trong thời gian tới về vấn đề trên.

Câu hỏi thứ hai, tôi đồng ý như của đại biểu Trương Trọng Nghĩa, nhưng tôi nói về khía cạnh khác, tôi băn khoăn rất nhiều mặt hàng tiêu dùng của nhân dân như xe đạp điện, các loại máy dùng cho tàu thuyền nhỏ từ 5 mã lực đến 120 mã lực đều nhập từ Trung Quốc. Trên cương vị bộ trưởng đồng chí có bình luận gì về vấn đề trên như thế nào, phải chăng đồng chí cho biết chúng ta thiếu một chiến lược gia về sản xuất hàng tiêu dùng và các loại máy nông nghiệp, máy dùng cho các tàu thuyền. Đồng chí có những giải pháp nào để xây dựng chiến lược hàng tiêu dùng người Việt Nam dùng hàng Việt Nam không, vửa tăng thu cho ngân sách vừa tạo công ăn việc làm hiện nay. Xin hết, xin cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Báo cáo với Quốc hội, chúng ta là một nước đã hội nhập rất sâu và rộng với thế giới. Như hôm trước một đại biểu Quốc hội TP.HCM đã nói rằng chúng ta có độ mở của nền kinh tế đến 170% so với GDP. Đây là một thực tế khi chúng ta đã có hầu như các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với hơn 12 đối tác, các nhóm nước lớn nhất của thế giới. Như vậy, căn cứ theo các quy định này chúng ta bắt buộc đều phải mở cửa thị trường cho các nhóm sản phẩm, cho các hoạt động thương mại của đối tác từ các nước.

Chúng ta cũng có quyền tương tự trong việc tiếp cận các thị trường của bên ngoài trong tất cả các nhóm ngành hàng sản phẩm mà chúng ta đã có được thông qua các cam kết hội nhập chung tại khuôn khổ đó. Vì vậy, cho dù đó là gà, thịt lợn, ngô, hay các loại nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất thức ăn gia súc hoặc các sản phẩm khác của nông sản, ta căn cứ theo nguyên tắc của cam kết hội nhập quốc tế, chúng ta đều phải thực hiện mở cửa thị trường.

Thậm chí chúng ta phải tiếp tục điều chỉnh các biểu suất về thuế xuất nhập khẩu đối với những sản phẩm này. Tuy nhiên, chúng ta còn có những điều kiện khác liên quan đến hàng rào kỹ thuật, nhất là các hàng rào về phẩm chất, quy cách, hàng rào kiểm dịch, thực vật, động vật... để chúng ta tiếp tục đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, đảm bảo được an toàn thực phẩm, đảm bảo được những yêu cầu chính đáng của bảo vệ thị trường trong nước và sản xuất trong nước.

Nhưng vì vậy, đối với câu hỏi của đại biểu, chúng tôi cho rằng quan điểm thị trường của chúng ta không cho phép nghĩ đến việc tiếp tục bảo hộ hoặc bảo vệ và không phù hợp với những quy định chung của hội nhập quốc tế.

Rõ ràng trên thực tế chúng ta cũng đã thấy, trong rất nhiều các lĩnh vực, khi chúng ta áp dụng hội nhập và thực hiện hội nhập, mở cửa, các ngành kinh tế của chúng ta đã nâng cao năng lực cạnh tranh, đã có điều kiện cạnh tranh bình đẳng và nâng cao giá trị của các ngành sản xuất chúng ta. Nhưng một số ngành chúng ta tiếp tục bảo hộ, đến nay cũng đang có những khó khăn trong tiếp tục thực hiện hội nhập có hiệu quả, ví dụ như ngành mía đường. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi cũng nói rằng có những vấn đề nhạy cảm liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội, liên quan đến đời sống của nhân dân và những vấn đề của hệ thống chính trị chúng ta. Vì vậy, quan điểm hội nhập của chúng ta vẫn còn có những bảo lưu đảm bảo trong các biện pháp để bảo vệ nghiên cứu thị trường và một số ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, những nội dung lĩnh vực mà đại biểu Quốc hội đã nêu, không phải là lĩnh vực chúng ta đóng cửa hoặc hạn chế nhập khẩu và chúng ta không có công cụ chính sách để hạn chế nhập khẩu.

Cách đây một tuần Quốc hội chúng ta thảo luận về Luật Quản lý Ngoại thương, trong đó quy định một số biện pháp về cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, cũng như bằng hạn ngạch. Nhưng những việc đó đều phải phù hợp trong các khuôn khổ của hội nhập quốc tế và những nguyên tắc của Tổ chức thương mại quốc tế. Vì vậy, quan điểm Bộ Công Thương và cá nhân tôi là phải tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt các ngành sản xuất trong đó có ngành nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo cạnh tranh có hiệu quả và đặc biệt hướng tới việc phục vụ đáp ứng cho nhu cầu người dân, xã hội ngày càng tốt hơn.

Ý thứ hai về vấn đề liên quan đến xe đạp điện và các công cụ, thiết bị, máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc. Đây là thực tế chúng ta còn có những yếu kém trong các chính sách về công nghiệp quốc gia và trong việc thực hiện các chương trình phát triển đó và Bộ Công thương cũng nhìn nhận, chúng ta chưa đạt được những mục tiêu, kể cả trong chiến lược công nghiệp ô tô và trong một số các ngành kinh tế khác, lĩnh vực quản lý của ngành công thương chưa đạt hiệu quả. Tất nhiên nguyên nhân và lý do còn có nhiều kể cả những lý do chủ quan về tầm nhìn, về quan điểm cũng như về các nghiên cứu xây dựng các chính sách.

Chúng tôi xin ghi nhận ý kiến của đại biểu và xin tiếp thu trong công tác xây dựng các chính sách cũng như chiến lược phát triển trong thời gian tới để cụ thể hóa quan điểm và chủ trương của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hội nhập sắp tới thì chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan của Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách công nghiệp quốc gia và những định hướng, biện pháp, chương trình cụ thể để cụ thể hóa những nội dung này.

Đại biểu Đặng Xuân Phương – Đoàn Đắk Lắk:

Hiện nay tình trạng kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật đang bị làm giả, không đúng như chất lượng công bố là vấn đề đang được bà con nông dân và cử tri cả nước rất quan tâm, thường xuyên chất vấn, trong đó có một số địa bàn như Đắk Lắk các tỉnh Tây Nguyên khác cũng như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bà con cử tri rất bức xúc về vấn đề này. Bên cạnh nguyên nhân suy thoái về đạo đức kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trong việc tạo ra những sản phẩm giả, kém chất lượng nhằm thu lợi bất chính, có ý kiến còn cho rằng liên quan đến bất cập trong cơ chế chính sách quản lý nhà nước còn phức tạp chưa hiệu quả. Có một vấn đề đang đặt ra hiện nay trong nội dung của Nghị định số 45 ngày 21/5/2012 của Chính phủ về khuyến công có quy định chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với công nghiệp hóa chất phục vụ nông nghiệp, nông thôn quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 5 của Nghị định 45 liên quan đến các danh mục, ngành nghề được ưu đãi hỗ trợ.

Xin Bộ trưởng cho biết quy định này tại Nghị định 45 có phải là một trong những nguyên nhân góp phần tạo ra thêm nhiều doanh nghiệp nhỏ sản xuất phân bón và các loại hóa chất phục vụ nông nghiệp, nông thôn, làm giả, kém chất lượng ở nước ta trong thời gian vừa qua hay không. Đề nghị đồng chí Bộ trưởng cho biết đến nay đã có bao nhiêu doanh nghiệp sản xuất hóa chất phục vụ nông nghiệp, nông thôn đã được hưởng ưu đãi về chính sách khuyến công, nhưng bị phát hiện qua phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng về việc sản xuất phân bón giả và các loại hóa chất khác kém chất lượng. Nếu đúng có thực tế này xảy ra thì Chính phủ và Bộ Công thương sẽ có những điều chỉnh gì trong chính sách khuyến công hiện nay để hướng tới sản xuất sạch hơn. Xin trân trọng cảm ơn.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đại biểu Đặng Xuân Phương nêu vấn dề về phân bón giả, chúng tôi đã trình bày ở phần trên xin không đề cập lại nữa và nếu cần thiết chúng tôi sẽ cung cấp thêm các bản giải trình bằng văn bản để gửi đến đại biểu.

Liên quan đến Nghị định 45 về khuyến công phục vụ cho phát triển công nghiệp hóa chất cũng như ngành nghề ưu đãi ở địa phương, chúng tôi xin tiếp thu ý kiến đại biểu, bởi vì đến hiện nay chúng tôi chưa nhận được những thông tin cụ thể liên quan đến hiện tượng như đại biểu đề cập đến. Chúng tôi sẽ tổ chức tiếp cận các thông tin, phản ánh và tổ chức kiểm tra, xác minh làm rõ và khảo sát để từ đó đánh giá lại về hiệu quả cũng như tính chất khả thi của Nghị định 45. Sau khi kiểm tra xác minh làm rõ và đánh giá chúng tôi sẽ xin đề xuất những biện pháp cụ thể và báo cáo lại đại biểu Quốc hội và báo cáo Quốc hội.

Đại biểu Phan Anh Khoa – Đoàn Phú Yên:

Vừa rồi các đại biểu đã đặt một số vấn đề mà chính ý tôi cũng muốn chất vấn Bộ trưởng về vấn đề vận hành các thủy điện, đặc biệt thủy điện liên quan đến địa bàn của Phú Yên. Ở đây tôi muốn đề nghị Bộ trưởng giải trình thêm vấn đề vận hành những thủy điện cụ thể là Kanak - An Khê liên quan đến việc điều hành nước trong mùa hạn cũng như mùa lũ đối với Phú Yên, các đại biểu cũng đã biết đặc thù của thủy điện này mùa nắng nước đưa về Bình Định, nhưng mùa mưa lũ trực tiếp xả xuống Phú Yên. Để đảm bảo những vấn đề này như vừa rồi Bộ trưởng nói trước khi sử dụng và xả lũ thì có báo cáo chính quyền và nhân dân địa phương nhưng ởđây vừa rồi cũng có báo nhưng thực tế Chủ tịch của Phú Yên và nhân dân và Ban phòng, chống bão lũ của Phú Yên không biết nên gánh chịu hậu quả vừa rồi rất lớn. Như vậy, theo chức năng, trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc chỉ đạo để điều hành vấn đề này cụ thể là thủy điện Kanak - An Khê đối với địa bàn Phú Yên như thế nào trong thời gian tới. Xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.

Đại biểu Nguyễn Đức Kiên – Đoàn Sóc Trăng:

Tôi xin chuyển đến đồng chí Bộ trưởng hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, trong Tổng sơ đồ điện 7 các đồng chí đã đưa ra và đã điều chỉnh rất nhiều các nhà máy nhiệt điện. Ở địa bàn Sóc Trăng có Nhà máy nhiệt điện Long Phú so với Tổng sơ đồ điện 6 và Tổng sơ đồ điện 7 đến nay đã chậm mất 6 năm không đưa vào sử dụng và cũng chưa xây dựng xong, tôi đề nghị đồng chí Bộ trưởng trả lời trách nhiệm thuộc về tổng thầu EPC hay là trách nhiệm thuộc về Ban quản lý dự án và trách nhiệm của cơ quan chủ quản nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước là của Bộ Công thương đến đâu. Thứ hai, từ đầu giờ sáng đến giờ rất nhiều các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, chất vấn bộ trưởng về vấn đề phân bón và phân bón giả. Ở đây, tôi chỉ hỏi Bộ trưởng một câu hỏi liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy và quản lý nhà nước của bộ trong năm 2015 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh về quản lý thị trường trong đó nhấn mạnh quản lý thị trường là chủ công trong việc đảm bảo chống hàng gian, hàng giả. Đến thời điểm hiện nay là tháng 11 năm 2011, các văn bản pháp quy được quy định trong Pháp lệnh quản lý thị trường đến bây giờ vẫn chưa ra đời và bộ máy mới vẫn chưa hoạt động được, trách nhiệm thuộc về Bộ Công thương hay Văn phòng Chính phủ hay tập thể Chính phủ không ra được nghị định để thực hiện pháp lệnh? Câu hỏi cuối cùng, tôi đề nghị nếu Bộ trưởng không trả lời được thì Thủ tướng Chính phủ trả lời. Tôi xin trân trọng cảm ơn.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Đối với vấn đề của đại biểu Phan Anh Khoa nêu lên về xả lũ của thủy điện cũng như liên quan tại Phú Yên về An Khê Kanak chúng tôi xin tổng hợp và báo cáo sau vì trong quá trình triển khai vừa rồi đã có đoàn công tác của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, của Bộ Công thương đi kiểm tra, đánh giá lại về quy trình vận hành và việc chấp hành pháp luật tại đây, chúng tôi xin báo cáo lại đại biểu để chúng ta có đầy đủ cơ sở cùng tham khảo và sau đó sẽ có giải trình thêm.

Đối với tổng sơ đồ 7 và ý kiến đại biểu Đức Kiên có nêu lên, chúng tôi nhìn nhận trên thực tế các dự án điện như điện Long Phú, chúng ta đang nói Long Phú 1 đã có sự chỉ đạo tập trung thực hiện để đảm bảo yêu cầu những dự án quan trọng tại vùng có phụ tải điện rất cao đó là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhưng qua quá trình thực hiện có một số vướng mắc cũng như một số vấn đề chậm khắc phục nên dẫn đến chậm tiến độ. Nhưng trước hết chậm ngay từ khi chúng ta chuẩn bị đầu tư chứ không phải trong quá trình triển khai đầu tư, chậm trong quá trình đầu tư. Bởi vì, còn rất nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ song phương của chúng ta với các đối tác liên quan đến vấn đề huy động vốn cũng như các cơ chế, những điều kiện phục vụ cho dự án nhất là các dự án BOT. Chính vì vậy, ở đây, trong các tổng sơ đồ 7 điều chỉnh và các tổng sơ đồ khác sau này, chúng ta luôn phải cập nhật các yêu cầu phát triển điện, nhất là vùng phụ tải điện lớn, đảm bảo cân bằng chung cũng như tiến độ các dự án. Dự án Long Phú 1, sau đó là dự án Long Phú 3 chúng tôi đã đưa tổng thể vào trong Tổng sơ đồ 7 điều chỉnh và sẽ có phương án để đảm bảo việc cân bằng cung cầu điện theo yêu cầu của Thủ tướng từ nay đến năm 2020, đặc biệt vào thời kỳ cao điểm của năm 2018 và năm 2019.

Trách nhiệm cụ thể khi chúng tôi xác minh làm rõ, nếu có những vấn đề chủ quan trong quản lý, điều hành của chủ đầu tư, của cơ quan quản lý của Tập đoàn dầu khí và của Bộ Công thương chúng tôi sẽ xem xét và báo cáo. Tuy nhiên, như tôi trình bày có nhiều vấn đề mang tính khách quan do những yếu tố về kỹ thuật, trong nội dung đàm phán với chủ đầu tư của hợp đồng BOT.

Với ý kiến của đại biểu Trần Đức Kiên còn có tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của Bộ Công thương, quản lý thị trường khi pháp luật thị trường được ban hành. Trên thực tế, thời điểm pháp luật quản lý thị trường được Quốc hội thông qua, hiện nay nó vẫn kéo dài, chưa có những văn bản, nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện. Nhưng vấn đề ở đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng, liên quan đến bộ máy, hệ thống tổ chức của lực lượng quản lý thị trường. Trên thực tế, trải qua nhiều kỳ Quốc hội đã được đưa ra Quốc hội thảo luận và đánh giá về hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý thị trường do lực lượng này thực hiện, cũng như do vai trò của Bộ Công thương và phối hợp các lực lượng chấp pháp khác. Trong đó, có một nguyên nhân rất quan trọng là về cơ cấu bộ máy tổ chức theo ngành ngang, ngành dọc hay như thế nào.

Trên thực tế, chúng ta có 63 tỉnh, thành có 63 lực lượng quản lý thị trường tại mỗi địa phương, chịu sự điều hành trực tiếp của lãnh đạo tỉnh. Bộ Công thương, với chức năng của mình là quản lý chuyên ngành về thị trường có tham gia chỉ đạo và thấy rằng đang có sự thiếu và yếu về hệ thống tổ chức xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo sự tập trung trong quản lý, chỉ đạo, điều hành cả về thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quản lý thị trường cũng như phương án đầu tư, nâng cao chất lượng của quản lý thị trường, cả về con người, vật chất, phương tiện, thiết bị... Đặc biệt, trong việc phối hợp với các lực lượng chức năng khác thực hiện các hoạt động đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại có trọng tâm, trọng điểm và đảm bảo hiệu quả. Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua, quan điểm của các địa phương và các bộ, ngành còn có sự phân tán trong việc xây dựng lực lượng quản lý thị trường theo hệ thống thống nhất từ trên xuống dưới và do Bộ Công thương chỉ đạo hay tiếp tục theo phương án cũ.

Vì vậy, qua báo cáo với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chúng tôi cũng được Thủ tướng Chính phủ thống nhất cho phép nghiên cứu xây dựng đưa vào dự thảo Nghị định 95 về tổ chức bộ máy của Bộ Công thương trong một cơ quan thống nhất để báo cáo, xem xét trong thời gian tới. Vấn đề này cần có sự tham gia ý kiến cẩn trọng của các địa phương, các bộ, ngành, đặc biệt là các lực lượng chức năng có liên quan để đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý thị trường và đấu tranh chống gian lận thương mại trên kinh nghiệm và thực tiễn chúng ta đã có. Vì vậy Nghị định 95 đang được nghiên cứu xây dựng và dự kiến cuối tháng 11, đầu tháng 12 sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ cho ý kiến. Chúng tôi xin tiếp thu và triển khai sớm theo đúng tinh thần để đảm bảo chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là liên quan đến một lực lượng quan trọng như lực lượng quản lý thị trường.

Thứ hai, trong thời gian đang có khoảng trống về pháp lý, nhất là liên quan đến Pháp lệnh thị trường, được sự đồng ý của Chính phủ chúng tôi đang tiếp tục thực hiện theo quy định cũ của các văn bản hướng dẫn trong thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ và quy chế của các lực lượng quản lý thị trường vẫn đang có hiệu lực. Hy vọng thời gian sớm trong tháng 11 và đầu tháng 12 sẽ được khắc phục. Xin trân trọng cảm ơn đại biểu.

Đại biểu Lê Công Nhường – Đoàn Bình Định:

Theo Báo cáo số 136 của Ủy ban Kinh tế và Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của Quốc hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 có đề nghị Chính phủ đề xuất các định hướng, giải pháp cụ thể phát triển công nghiệp của Việt Nam, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng giảm mạnh tỷ trọng gia công, lắp ráp. Xin hỏi Bộ trưởng:

Thứ nhất, từ năm 2017 Bộ Công thương định hướng phát triển công nghiệp Việt Nam tập trung vào lĩnh vực nào?

Thứ hai, những giải pháp và kế hoạch của Bộ Công thương để giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp trong khi trình độ công nghệ của ta còn thấp và cần giải quyết việc làm cho công nhân. Xin Bộ trưởng nói rõ việc phải phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc giải quyết lao động dôi dư do tái cơ cấu này trong khi áp lực giải quyết việc làm rất lớn, theo tính toán năm 2017 cần giải quyết 1,8 triệu lao động mới, trong khi đó áp lực về việc tinh giản biên chế ở các đơn vị sự nghiệp. Xin Bộ trưởng trả lời, xin cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Câu hỏi của đại biểu Lê Công Nhường liên quan đến các giải pháp phát triển công nghiệp nghiệp Việt Nam, nội dung rất rộng và trải qua quá trình dài, nội dung thứ hai liên quan đến việc phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội giải quyết lao động dôi dư đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức.

Nội dung thứ hai, chúng tôi xin tham gia giải trình cùng Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc phiên họp tới liên quan đến vấn đề về cơ cấu, tổ chức bộ máy và nội dung nhiệm vụ của các bộ, ngành có liên quan đến vấn đề về biên chế và lao động.

Đối với chính sách công nghiệp, vì nó là một quá trình dài, nếu được tôi xin phép Chủ tọa và đại biểu Lê Công Nhường sẽ có văn bản báo cáo. Nếu tất cả các ngành kinh tế công nghiệp mà gói vào một nội dung để trả lời trong ngày hôm nay e rằng khó đủ, nhất là liên quan đến các cơ chế chính sách, những việc tổ chức phối hợp thực hiện trong bộ máy nhà nước cũng như khai thác nguồn lực xã hội thì rất dài và khó đảm bảo đi vào trọng tâm. Tôi xin phép gửi văn bản đến đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Nguyễn Văn Cảnh – Đoàn Bình Định:

Thiệt hại do xả lũ gây ra vừa qua có phần là do thông tin xả lũ đến với người dân không kịp thời, nếu báo động kịp thời để người dân biết đập thủy điện bắt đầu xả lũ sẽ giúp giảm đáng kể thiệt hại về người và của. Xin hỏi Bộ trưởng, chúng ta đã áp dụng hệ thống còi báo động xã lũ chưa? Nếu chưa chúng ta có cần bổ sung thêm yêu cầu là đối với các công trình thủy điện có nguy cơ gây ngập lụt cao thì phải lắp đặt các hệ thống còi báo động công suất lớn, kết nối tín hiệu có dây hoặc không dây cách nhau vài km dọc theo bờ sông xả lũ hoặc tại các vùng trũng nơi lũ thường tràn về để người dân biết trước, chủ động phòng, tránh lũ kịp thời giống như chúng ta đã từng có các hệ thống còi báo động để báo khi địch đến trong chiến tranh và nếu cần làm thì Bộ trưởng sẽ làm như thế nào và khi nào nên áp dụng để giảm thiệt hại về người và của hàng năm khi lũ đến.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Với những ý kiến gợi ý của Đại biểu trong quy trình xả lũ đảm bảo an toàn hạ du, theo quy định của pháp luật hiện hành phải thông báo bằng các hình thức trực tiếp hoặc có thông báo bằng văn bản đến người dân. Phần lớn trên thực tế trong quy trình chưa có thông báo bằng còi hoặc còi hú nhưng thực tế, trong quá trình vẫn có vẫn có cảnh báo kịp thời tới người dân. Như đã thông tin, sắp tới Bộ Công Thương sẽ thành lập đoàn thanh tra toàn bộ quy trình xả lũ của các hồ thủy điện tại các địa phuơng. Thời gian tới, Bộ cũng sẽ xem xét đưa các quy trình thông báo xả lũ vào các văn bản pháp quy.

Đại biểu Nguyễn Trường Giang– Đoàn Đắk Nông:

Công nghiệp ô tô của Việt Nam có đạt được các mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa giá bán xe có hợp lý không, Bộ trưởng đánh giá thế nào về chất lượng xe và giá bán xe ở Việt Nam. Việc bảo hộ sản xuất xe trong nước có bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp.Có hiện tượng chuyển giá trong nhập khẩu phụ tùng xe lắp ráp trong nước hay không?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Về phát triển công nghiệp ô tô, chúng ta đã có mục tiêu chiến lược phát triển ngành này. Tuy nhiên vừa qua chúng ta chưa đạt được mục tiêu đề ra, chưa tham gia vào chuỗi giá trị thế giới và tăng tỉ lệ hóa. Bộ đã xem xét, làm rõ các nguyên nhân cả về: dung lượng thị trường, thực thi chính sách, phát triển công nghiệp phụ trợ, chuyển giao công nghệ... Trên cơ sở xác định nguyên nhân như trên, Bộ đề ra các giải pháp khắc phục theo hướng xây dựng các chính sách ưu tiên, hỗ trợ về thuế, phát triển hạ tầng, khuyến khích chuyển giao công nghệ... tập trung dòng xe dưới 9 chỗ ngồi, xe tải, xe khách... Về giá ô tô, chúng tôi không bình luận sâu vì còn liên quan đến vấn đề thuế. Trong thời gian tới, các điều kiện về sản xuất, kinh doanh ô tô sẽ được cải thiện đảm bảo nhu cầu của người dân và phát triển nền kinh tế.

Đại biểu Phùng Đức Tiến – Đoàn Hà Nam:

Câu hỏi thứ nhất, thực trạng cơ khí chế tạo và giải pháp trong thời gian tới.
Câu hỏi thứ hai, ngoài phân bón, nông sản, vật tư nông nghiệp kém chất lượng tràn lan trên thị trường trong thời gian qua rượu, bia, nước giải khát đồ uống đóng chai hàng giả hàng kém chất lượng cũng tràn lan trên thị trường đây chính là phân công của Luật an toàn thực phẩm đối với bộ. Đề nghị đồng chí cho biết trách nhiệm của bộ và trách nhiệm của Bộ trưởng nói riêng và giải pháp trong thời gian tới. Xin hết, cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Về chính sách phát triển ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ, tôi thừa nhận về chính sách còn bất cập, năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế,... Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương và các Bộ ngành liên quan xây dựng chính sách hỗ trợ cả về xúc tiến thương mại, chuyển giao công nghệ... để phát triển ngành này.

Về đấu tranh chống hàng giả, gian lận thương mại đây là vấn đề phức tạp, các lực lượng (trong đó có quản lý thị trường được đánh giá là lực lượng chủ công) đã và đang tích cực đấu tranh từ biên giới đến thị trường nội địa để khắc phục tình trạng này. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý thị trường, việc phòng chống hàng giả, gian lận thương mại cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, địa phương và nhân dân bởi theo Bộ trưởng, không thể riêng một ngành nào có thể kiểm soát được tình hình

Đại biểu Nguyễn Phương Tuấn – Đoàn Ninh Bình:

Nhà máy đạm Ninh Bình đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chưa quyết toán được vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản thì đây là có lỗi chủ quan của chủ đầu tư. Vậy tôi xin hỏi trách nhiệm của Bộ trưởng đối với vấn đề này như thế nào. Nếu Nhà máy đạm Ninh Bình mà hiệu quả kinh tế không còn có bán lại hay cơ cấu lại không? Hiện nay có hơn 700 công nhân của Nhà máy đạm Ninh Bình không có việc làm. Hiện tại nhà máy đã dừng hoạt động rồi, vậy tương lai của những người công nhân này ra sao, xin Bộ trưởng cho biết? Xin cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Nhà máy Đạm Ninh Bình có nhiều vấn dề phức tạp trong quá trình phê duyệt. Thời điểm Dự án được phê duyệt khi giá khí còn cao. Đến nay giá dầu đã giảm thấp, Dự án không còn khả thi, không cóđủ khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nhà máy khác trong nước cũng như các sản phẩm nhập khẩu. Bộ Công Thương hiện đang thanh tra và sẽ có báo cáo Quốc hội, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cụ thể sau do cần có thêm thời gian đánh giá thấu đáo về Dự án.

Đối với 700 người lao động của Dự án Đạm Ninh Bình, Bộ Công Thương sẽ xem xét trong tổng thể Dự án và sẽ có phương án cụ thể. Tuy nhiên, Bộ trưởng nhấn mạnh, sẽ xem xét lại toàn bộ Dự án theo hướng bảo toàn tài sản nhà nước và đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người lao động.

Đại biểu Hoàng Đức Thắng – Đoàn Quảng Trị:

Tại phiên thảo luận về kinh tế - xã hội ngày 3/11/2016 tôi đã có kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan về chủ trương đầu tư đưa điện lưới quốc gia ra huyện đảo Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị theo cơ chế đặc thù thay cho việc cấp điện diezen hiện nay, nhằm giúp cho huyện đảo có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh, ở một huyện đảo có vị trí quan trong ở cửa ngõ vịnh Bắc Bộ. Tôi cũng được biết hiện nay cơ bản các huyện đảo trong cả nước đã được cấp lưới điện quốc gia. Xin Bộ trưởng cho biết quan điểm của Bộ Công Thương về vấn đề này như thế nào? Nếu chủ trương đầu tư được chấp thuận Bộ trưởng có thể cho biết khoảng bao lâu dự án này sẽ được triển khai? Xin cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Về việc đưa điện ra đảo Cồn Cỏ, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã xem xét, cân đối, tính toán lại các tình huống khi đưa điện ra Cồn Cỏ. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng đã yêu cầu Bộ Công Thương đánh giá lại hiệu quả và tính khả thi nếu triển khai đưa điện ra đảo Cồn Cỏ vì chi phí khi thực hiện rất cao. Bộ Công Thương cùng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam sẽ sớm có kết luận, báo cáo Chính phủ và tổ chức triển khai.

Đại biểu Phan Thái Bình – Đoàn Quảng Nam:

Thủy điện Sông Bung 2 tại Quảng Nam vừa nghiệm thu, tích nước vào đầu năm 2016, nhưng đến ngày 13/9/2016 xảy ra sự cố vỡ ống dẫn dòng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Sau khi sự cố xảy ra, Bộ Công thương đã vào kiểm tra, đã thông tin tới báo chí. Nhưng dư luận đặt ra có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do lũ từ cơn bão số 4. Ngoài ra, theo một số chuyên gia độc lập về thủy điện, cần kiểm tra làm rõ hồ sơ thiết kế và chất lượng thi công công trình. Đề nghị Bộ trưởng nói rõ nguyên nhân nào là chính, có nguyên nhân do thiết kế và thi công không đảm bảo chất lượng hay không? Trách nhiệm thuộc về tổ chức, cá nhân nào? Bộ đã kiểm tra và xử lý như thế nào? Riêng công trình này cũng như các công trình thủy điện trong cả nước có còn sự cố xảy ra tương tự như thế này không? Xin cảm ơn Quốc hội và cảm ơn Bộ trưởng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Sự cố Sông Bung 2 đáng tiếc xảy ra vừa qua trong tình trang mưa lũ. Nguyên nhân chính được xác định là mưa lũ lớn gây vỡ đê quai. Ngay sau khi xảy ra sự cố, ngày 15/9, Bộ Công Thương đã thành lập Đoàn kiểm tra thực tế do Thứ trưởng Bộ Công Thương làm Trưởng đoàn. Nguyên nhân được xác định là do khâu thiết kế thi công. Bộ Công Thương đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Chủ đầu tư phối hợp cùng địa phương đánh giá tình hình cụ thể. Ngay sau khi có kết quả, Bộ sẽ có báo cáo Quốc hội cụ thể sau. Tuy nhiên, tôi xin giải thích thêm, khi tình hình mưa lũ tạm lắng lại, quá trình kiểm tra thực tế mới có thể tiến hành được, do đó, Bộ "nợ" báo cáo dịp sau.

Đại biểu Hồ Thanh Bình - Đoàn An Giang:

Việc tìm đầu ra cho nông sản luôn là mối quan tâm của cử tri ở đồng bằng sông Cửu Long cũng như nông dân cả nước. Công tác thị trường, đặc biệt là thị trường phục vụ xuất khẩu đối với các nông sản chủ lực của Việt Nam như lúa gạo, thủy sản và trái cây vẫn còn lúng túng, bị động và đôi khi bế tắc. Xin Bộ trưởng cho biết ngành Công Thương có những giải pháp bền vững nào để giúp tiêu thụ và xuất khẩu các nông sản của đồng bằng sông Cửu Long cũng như Việt Nam.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh:

Về trách nhiệm trong liên kết 4 nhà trong giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, Bộ trưởng nhấn mạnh giải pháp phát triển nông nghiệp quy mô lớn, bỏ hạn điền, xây dựng chuỗi sản phẩm chủ lực, xây dựng chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn... Thời gian qua, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ ngành liên quan để triển khai các chương trình, giải pháp nhằm tạo ra những mối liên kết chặt chẽ trong tiêu thụ sản phẩm trong thị trường nội địa và xuất khẩu...

Chúng tôi hy vọng trong buổi sáng ngày hôm nay, bằng sự chuẩn bị, bằng sự hiểu biết của mình cũng như tập thể lãnh đạo, công chức, viên chức ngành Công Thương sẽ cố gắng cung cấp đầy đủ, rõ ràng những nội dung được đề cập trong phiên chất vấn.

Tuy nhi...