Nhập siêu trong những năm tháng kháng chiến được xử lý thế nào?

Giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu của ta chủ yếu chỉ đảm bảo được cho nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu các thiết bị lẻ, vật tư, tư liệu, nguyên liệu sản xuất. Còn thiết bị toàn bộ phần lớn được Liên Xô, Trung Quốc viện trợ.
nhập siêu
Cán bộ thâu hóa trạm chiếu cói Kim Sơn (Ninh Bình) kiểm tra chất lượng hàng cói xuất khẩu, năm 1970 (Ảnh: TTXVN)

Hoạt động xuất khẩu trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước khá nhỏ bé. Trong cơ cấu xuất khẩu, chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong khi hàng nông sản chưa qua chế biến chiếm tỷ trọng không đáng kể.

Vì thế, cán cân thương mại luôn mất cân đối. Trong 20 năm 1955 - 1975, năm nào Việt Nam cũng ở trạng thái nhập siêu.

Nhập siêu trong những năm tháng kháng chiến được giải quyết chủ yếu bằng hàng viện trợ không hoàn lại và cho vay tín dụng. Chúng chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thanh toán cho hàng nhập khẩu.

Thời kỳ này, công tác quản lý xuất nhập khẩu dựa trên nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương. Mọi hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đều phải có giấy phép.

Hàng hóa xuất nhập khẩu ở đây có nội hàm khá rộng, được hiểu là hàng hóa kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, hàng mẫu, hàng triển lãm, quảng cáo, hàng tạm xuất khẩu, tạm nhập khẩu, hàng vận tải quá cảnh... kể cả các văn hóa phẩm và bằng sáng chế phát minh có tính chất hàng hóa; hàng nhập khẩu bằng nguồn ngoại tệ vay nợ, viện trợ và các loại hàng phi mậu dịch. Cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa là Bộ Ngoại thương.

Vì độc quyền ngoại thương nên Bộ Ngoại thương phải hoạt động hết công suất, phải đọc hàng trăm các báo cáo, tài liệu với vô số các dữ liệu thống kê, rồi dựa vào các định hướng, phân tích: Kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, chính sách bảo hộ sản xuất và đối với tiêu dùng ở trong nước, cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài và nhu cầu của thị trường thế giới... để định ra hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng năm với một số mặt hàng chủ yếu.

Tiếp đến, căn cứ vào tổng hạn ngạch xuất khẩu để thống nhất với các Bộ, Tổng cục, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, về hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của từng Bộ, từng tỉnh, trong đó đã phân bố cụ thể cho từng đơn vị kinh tế phù hợp với khả năng sản xuất và nhu cầu nhập khẩu của các đơn vị đó.

Trong khi các đơn vị quản lý thuộc Bộ Ngoại thương hết sức bận rộn thì các doanh nghiệp khá rảnh rang, họ chỉ phải lo khâu sản xuất, chế biến, đóng gói hàng hóa cho đúng quy cách. Các công đoạn khó khăn nhất, quyết định nhất đến lợi nhuận và sự phát triển của doanh nghiệp là tiếp thị, giá bán, thị trường tiêu thụ… đều được giải quyết bằng nghị định thư xuất nhập khẩu giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa.

Thường có một Thứ trưởng Bộ Ngoại thương là Trưởng đoàn đàm phán các Nghị định thư xuất nhập khẩu hàng năm giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Công việc của Trưởng đoàn khá vất vả. Chỉ riêng việc chỉ đạo các cơ quan tham mưu thuộc Bộ hướng dẫn, giúp đỡ các tổng công ty, công ty thuộc các Bộ khác và các địa phương được trực tiếp xuất nhập khẩu; cùng các Bộ, Ủy ban chủ quản xác định chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu của đơn vị; giám sát, kiểm tra định kỳ, đột xuất các đơn vị trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước và các nghĩa vụ có liên quan đến những điều ước và hợp đồng ký với nước ngoài đã tiêu tốn gần hết quỹ làm việc hàng ngày.

Từ tháng 10 trở đi mới thực sự căng thẳng, bước vào thời gian nước rút chuẩn bị đàm phán nghị định thư xuất nhập khẩu với các nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện vào năm sau. Trưởng đoàn phải thường xuyên trao đổi với đại diện của các bộ Nông nghiệp, Nội thương, Vật tư, Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Giao thông vận tải, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài… lên danh sách và hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu cho từng mặt hàng. Sau đó rà soát, điều chỉnh lên xuống sao cho tổng kim ngạch xuất khẩu bằng tổng kim ngạch nhập khẩu.

Thông thường, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông, lâm sản như chè, cà phê, hạt tiêu, rau quả, thịt… nên việc xác định mặt hàng không phức tạp lắm. Khó khăn có chăng chỉ là đo lường được năng lực sản xuất, thu mua của các đơn vị làm hàng xuất khẩu, nhất là các đơn vị trực thuộc địa phương. Nhưng xác định mặt hàng và số lượng hàng nhập khẩu là cả một vấn đề. Vì lúc đó vật tư, nguyên liệu, máy móc, hàng tiêu dùng thiếu nhiều, có thể nói ngành nào cũng thiếu, ngành nào cũng “kêu”. Nói về ưu tiên, lĩnh vực nào cũng đáng ưu tiên cả. Rất khó để cả quyết rằng, nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên phụ liệu về để làm hàng xuất khẩu, hay để tạo cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế, hoặc để phục vụ tiêu dùng trong nước cần phải được ưu tiên trước nhất.

Tùy theo tình hình sản xuất và đời sống nhân dân từng năm mà đoàn đàm phán do Bộ Ngoại thương chủ trì sẽ quyết định ưu tiên mặt hàng và số lượng nhập khẩu.

Giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu của ta chủ yếu chỉ đảm bảo được cho nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu các thiết bị lẻ, vật tư, tư liệu, nguyên liệu sản xuất. Còn thiết bị toàn bộ phần lớn được Liên Xô, Trung Quốc viện trợ hoặc cho vay để xây dựng nên các nhà máy: Cơ khí Hà Nội, Gang thép Thái Nguyên, Phích nước Rạng Đông, Xà phòng Hà Nội, Nhiệt điện Uông Bí, Thủy điện Thác Bà, hay Hóa chất Việt Trì…

Đào Mạnh Đức