Cơ chế tài chính cho các dự án CDM giúp doanh nghiệp giảm phát thải ra môi trường

Trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc xây dựng bộ khung pháp lý nhằm thắt chặt, bắt buộc các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ Luật Bảo vệ Môi t

Không chỉ mang lại các lợi ích về thương hiệu, các hoạt động đầu tư bảo vệ môi trường theo cơ chế phát triển sạch còn mang lại lợi ích về tài chính cho các doanh nghiệp. Thông qua các dự án đầu tư cho bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí thải nhà kính, các doanh nghiệp có thể thu về những khoản tài chính nhất định thông qua việc bán các Chứng chỉ Giảm thiểu phát thải (CERs). Tại Việt Nam, một quốc gia đang phát triển nên cũng có nhiều lợi thế và thị trường này cũng bắt đầu sôi động hơn với việc mở đầu của dự án thu gom và sử dụng khí đồng hành mỏ Rạng Đông, tiếp theo là các dự án tại bãi rác Đông Thạnh và Phước Hiệp I – Thành phố Hồ Chí Minh, và sắp tới đây là một số dự án sản xuất Bio- Ethanol. Đến nay, Việt Nam đã thu lệ phí bán CERs hơn 31 tỷ đồng, số tiền này được chuyển về Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam để phục vụ cho các dự án đầu tư bảo vệ môi trường. 

Để thúc đẩy các dự án theo hướng CDM, từ năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg về một số cơ chế chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch. Theo đó, các doanh nghiệp có các dự án đầu tư sản xuất theo công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường, có kết quả giảm phát thải khí thải nhà kính được Ban chấp hành Quốc tế về CDM (tổ chức các nước tham gia Công ước Khí hậu thành lập và uỷ quyền giám sát các dự án CDM) chấp thuận đăng ký và cấp chứng chỉ phát thải nhà kính đều có thể đăng ký với Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam về CERs được ban chấp hành quốc tế về CDM cấp cho dự án CDM và có thể vay vốn từ Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam để thực hiện các dự án CDM. 



Để hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, ngày 07/7/2008, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ra thông tư liên tịch số 58/2008/TTLT-BTN-BTN&MT về hướng dẫn thực hiện một số điều trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 130/2007/QĐ-TT. Theo đó, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam có trách nhiệm thẩm định tờ khai nộp lệ phí của chủ sở hữu CERs, tổ chức thu, quản lý, sử dụng lệ phí bán CERs. Theo đó. mức thu lệ phí bán CERs được tính theo tỷ lệ % trên tổng số tiền bán CERs theo hợp đồng đã ký kết hoặc giá trị của CERs mà nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước áp dụng đối với từng dự án CDM thuộc 8 lĩnh vực: Nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo tồn và tiết kiệm năng lượng; Khai thác, ứng dụng nguồn năng lượng tái tạo; Trồng rừng, tái trồng rừng, bảo vệ rừng để tăng khả năng hấp thụ, giảm phát thải khí nhà kính; Chuyển đổi sử dụng nhiên liệu hoá thạch nhằm giảm phát thải khí nhà kính; Thu hồi khí metan (CH4) từ các bãi chôn lấp rác thải, từ các hầm khai thác than để tiêu huỷ hoặc sử dụng cho phát điện sinh hoạt; Giảm phát thải khí metan từ các hoạt động trồng trọt chăn nuôi, ứng dụng khí sinh học; Thu hồi và sử dụng khí đốt đồng hành từ các mỏ khai thác dầu; Các lĩnh vực khác mang lại kết quả giảm phát thải khí nhà kính, với mức phí cho từng loại từ 1,2% đến 2%.
Để xây dựng dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch, các doanh nghiệp có thể vay vốn từ Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam và nguồn chi hỗ trợ từ Quỹ Bảo vệ Môi trường cho mỗi dự án để xây dựng văn kiện thiết kế dự án là không quá 30% nguồn thu từ lệ phí bán CERs… 

Có thể thấy, không chỉ mang lại lợi ích về thương hiệu, kinh tế, đối với các doanh nghiệp chủ động xây dựng các dự án bảo vệ môi trường mà bên cạnh đó, các dự án cũng đã giúp doanh nghiệp giảm phát thải ô nhiễm ra môi trường, giảm thiểu chi phí vận hành. Đặc biệt, đối với một số ngành sản xuất đặc thù (chế biến tinh bột sắn, các nhà máy đường…) đầu tư đổi mới công nghệ xử lý ô nhiễm, tái tạo năng lượng còn có thể thu hồi dịch để đốt hoặc xử lý trong nước thải phát sinh nhiều khí biogaz, đơn vị có thể đầu tư công nghệ phù hợp cho phép thu hồi khí để đốt lò hơi hoặc phát điện. Sử dụng năng lượng tái tạo cho phép các đơn vị sản xuất tiết kiệm một lượng lớn nhiên liệu đầu vào, đem lại lợi ích kép, vừa giảm thiểu ô nhiễm, vừa giảm thiểu chi phí vận hành. Lợi ích trực tiếp này đã được chứng minh tại các nhà máy sản xuất cồn, rượu, bia, giấy… tại Việt Nam.