Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và mục tiêu phát triển các KCN
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước cho giai đoạn đến năm 2010, nhằm xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, vai trò của công nghiệp có một vị trí đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của công nghiệp trong giai đoạn mới phải bảo đảm đạt tốc độ nhanh và bền vững, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Bước đi của giai đoạn đến năm 2010 là rất quan trọng, chiến lược đặt ra mục tiêu đẩy nhanh phát triển công nghiệp với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 10 - 10,5%/ năm (tương đương với mức tăng giá trị sản xuất công nghiệp trên 12%/ năm), hướng tới nâng cao tỷ trọng đóng góp của công nghiệp vào GDP (khoảng 40 - 41%, bao gồm cả xây dựng), thu hút khoảng 23%– 24% lực lượng lao động xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng đặt ra mục tiêu phân bố công nghiệp hợp lý trên toàn lãnh thổ, với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, liên kết giữa quy mô nhỏ, vừa và lớn, giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đảm bảo hài hoà về lợi ích, gắn việc bố trí sản xuất công nghiệp với phát triển kết cấu hạ tầng (cả hạ tầng kỹ thuật và xã hội) và sự phát triển chung của vùng, lãnh thổ và toàn quốc.
Kinh nghiệm trên thế giới cũng như trong nước những thập kỷ gần đây cho thấy rằng hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung mang lại hiệu quả to lớn cho sự phát triển công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Hình thức này được thừa nhận ở nhiều nước và gần đây đã được tiếp nhận, phát triển ở nước ta là các loại hình khu công nghiệp (KCN) - hiện nay đã có những bước phát triển khá, tuy còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu đánh giá và giải quyết.
Thực tế cho thấy, chủ trương phát triển các KCN là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp; cải tiến và phát triển hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp mới, hiệu quả và đảm bảo tính bền vững (sinh thái) trong phát triển công nghiệp; tạo cơ sở thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, bao gồm cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước; tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế, tạo việc làm và tăng sản lượng công nghiệp cũng như tăng giá trị xuất khẩu.
Theo kết quả của nhiều công trình nghiên cứu, thì quy mô thông thường của các KCN ở Việt Nam giao động từ 100 – 300 ha, với khoảng 70% diện tích dành cho bố trí các cơ sở công nghiệp, còn lại là các dịch vụ bao gồm kết cấu hạ tầng và các dịch vụ khác. Với quy mô và bố trí như vậy, ước tính nếu thu hút đầu tư tốt, bình quân 1 ha đất công nghiệp thu hút được khoảng 3,5 – 5 triệu USD vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, và tạo ra khoảng 100 – 200 chỗ làm việc, với doanh thu bình quân hàng năm khoảng 5 triệu USD. Vì vậy, việc tiếp tục phát triển các KCN một cách có chất lượng là rất quan trọng để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đất nước cho giai đoạn đến năm 2010 và các giai đoạn kế tiếp
Theo tính toán sơ bộ, để lấp đầy tất cả các KCN đã được thành lập, phải thu hút được khoảng gần 6000 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư 25 – 30 tỷ USD. Vì vậy, trong những năm tới, phải thu hút thêm khoảng 3500 doanh nghiệp hình thành mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký 12 – 17 tỷ USD, trong đó chủ yếu là nguồn vốn trực tiếp nước ngoài. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong các năm qua, nếu tập trung tất cả các dự án FDI vào các KCN thì cũng phải mất 7 – 9 năm nữa, chúng ta mới có thể lấp đầy các KCN đã được thành lập. Và nếu đạt mục tiêu đó thì lực lượng lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp công nghiệp của KCN có thể lên tới trên 1 triệu người. Nếu tính tới cả lực lượng lao động gián tiếp trong khu vực dịch vụ KCN, lao động trong các lĩnh vực hoạt động khác bên ngoài KCN, thì sẽ có một số lượng lớn lao động xã hội được giải quyết việc làm.
Nhưng cho tới năm 2010, chỉ với những KCN hiện đã được cấp phép thành lập đã gặp phải một số khó khăn như sau:
- Nhu cầu vốn đầu tư là rất lớn, riêng cho hạ tầng KCN ước tính sơ bộ từ 2– 3 tỷ USD,
- Các lợi thế so sánh động của ta đang có xu hướng giảm dần, do những điều chỉnh chính sách kinh tế của các nước trong khu vực, dẫn tới khả năng thu hút đầu tư của ta bị suy giảm;
- Thị trường trong nước, với sức mua còn hạn chế, khó có thể hấp dẫn các nhà đầu tư, và đương nhiên, hạn chế khả năng phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng. Tình hình này đòi hỏi phải mau chóng mở rộng thêm nhiều thị trường xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong và ngoài KCN .
Như vậy, đứng trước những khó khăn, thách thức trong giai đoạn tới 2010, các KCN của Việt Nam nên được định hướng phát triển như thế nào? ở cấp vĩ mô, việc quan trọng và cấp thiết phải làm, đó là: sớm nghiên cứu đánh giá lại tính khả thi của các KCN hiện đã được cấp phép thành lập để có được một kế hoạch cụ thể hơn cho các KCN nào nên được tiếp tục đầu tư, KCN nào nên tạm thời đình hoãn, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, lãng phí và kém hiệu quả; tiếp tục nghiên cứu xác định rõ và đưa vào quy hoạch một số ít các KCN mới, nếu thực sự hội đủ các điều kiện đảm bảo tính khả thi và hiệu quả kinh tế; rà soát, điều chỉnh và bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng trên cả nước trình Chính phủ phê duyệt và có các giải pháp đảm bảo thực hiện quy hoạch với đầy đủ giá trị pháp lý và thực tiễn của nó.
Phương hướng đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước các KCN Việt Nam giai đoạn đến năm 2010
a- Quan điểm phát triển
Muốn phát triển KCN nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra cho giai đoạn đến năm 2010, chúng ta cần thống nhất một số quan điểm.
Một là, thấu suốt chủ trương, thống nhất nhận thức KCN là một bộ phận cấu thành của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Đó là dự án đầu tư quy mô lớn, dài hạn, giải quyết những vấn đề cơ bản, lâu dài: quy hoạch, môi trường, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội. Trong tổ chức thực hiện, cần kiên trì và cùng hiệu lực thì mới bảo đảm phát huy hiệu quả của nó, vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế.
Hai là, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của KCN, không chỉ quan tâm đến các KCN lớn và tương đối lớn ở đô thị và ven đô thị, mà còn phải chú trọng các KCN quy mô vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn để thúc đẩy CNH nông nghiệp và nông thôn. Đi đôi với việc tích cực xây dựng các KCN theo quy hoạch, cần đặc biệt chú ý thu hút đầu tư vào những KCN đã hình thành, thường xuyên rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao sức hấp dẫn và phát huy hiệu quả đầu tư của các KCN.
Ba là, cần liên tục hoàn thiện chính sách phát triển KCN. Quan điểm phát triển hạ tầng KCN là để hỗ trợ phát triển công nghiệp bên cạnh kinh doanh bất động sản công nghiệp. Theo quan điểm này thì trong thời gian tới, Nhà nước cần hỗ trợ tài chính để phát triển hạ tầng, nhất là bồi thường, giải phóng mặt bằng, công trình xử lý chất thải, các công trình hạ tầng ngoài hàng rào và cho Công ty phát triển KCN được hưởng chính sánh ưu đãi về thuế nhất là thuế giá trị gia tăng. Cho các doanh nghiệp được miễn tiền thuê đất và được miễn giảm tối đa các loại thuế, để đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN. Cho phép người nước ngoài làm việc trong KCN được mua nhà ở có thời hạn. Cổ phần hoá các doanh nghiệp KCN có vốn đầu tư nước ngoài để tăng cường khả năng huy động thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước và lâu dài là vốn đầu tư trong công chúng. Có chính sách cụ thể khuyến khích phát triển KCN tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội có khó khăn phù hợp với đặc thù của KCN. Bảo đảm lợi ích cao hơn cho các doanh nghiệp đầu tư vào KCN so với doanh nghiệp cùng loại hoạt động ngoài KCN thì mới tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư vào KCN. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Bốn là, phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” đối với KCN, gắn liền với việc tiếp tục thực hiện một số công việc sau: BQL KCN cấp tỉnh là cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với KCN theo cơ chế trên; các Bộ, ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân tỉnh phân cấp mạnh hơn nữa cho BQL KCN cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền khi đủ điều kiện; bỏ dần cơ chế “xin cho - xét từng trường hợp cụ thể”, chuyển sang cơ chế “đăng ký và hậu kiểm”, chuyển từ cơ chế “cai trị” sang “phục vụ”; các cơ quản lý nhà nước phải tin vào các doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật; trả lương đúng cho công chức.
Năm là, về đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý KCN
Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý KCN phải là một khâu trong công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia của nước ta, trong đó, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước được điều chỉnh chức năng và phương thức hoạt động theo hướng tăng cường quản lý vĩ mô các lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội bằng hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ, giảm khối lượng xử lý các vụ việc cụ thể. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ và cơ quan ngang bộ là quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bao quát tất cả các thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước; phân định rõ chức năng, thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước với nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công để bố trí bộ máy và phương thức hoạt động phù hợp.
Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý KCN phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hoạt động của bộ máy quản lý. Hệ thống quản lý nhà nước đối với KCN từ cấp trung ương đến địa phương cần được rà soát lại chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp lại cho phù hợp với nhu cầu phát triển của hệ thống KCN nước ta trong giai đoạn tới.
Mô hình phát triển KCN là đúng, đáp ứng việc phát triển công nghiệp theo quy hoạch, lâu dài và bền vững. KCN là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. KCN cần được sự quan tâm, tạo thuận lợi hơn nữa của tất cả các ngành, các cấp, nhằm đưa KCN phát triển lên tầm cao hơn trong thời gian tới.
b- Phương hướng phát triển.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và căn cứ vào mục tiêu đã đặt ra, hoạt động phát triển các KCN trong giai đoạn đến 2010 nên hướng tới những nội dung cụ thể như sau:
Cần tiếp tục phát triển KCN với mục tiêu tổng quát là tập trung xây dựng KCN trở thành lực lượng công nghiệp mạnh có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa việc liên kết giữa KCN và thị trường, đi tiên phong trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực.
Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN, phát triển có hiệu quả, có tính đến nhu cầu của từng địa phương và có tính đến khả năng của nền kinh tế, theo kịp được tiến trình CNH, HĐH đất nước. Hạn chế đến mức thấp nhất việc lấy đất lúa đã thuỷ lợi hoá làm KCN.
Phát triển KCN hiện có theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của nó theo hướng: lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và cuối cùng là phát triển các ngành công nghệ cao như thông tin, cơ điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới...
Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo, nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt khi hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực.
Xem xét chọn lọc một số KCN quy mô lớn, hội đủ các điều kiện cần thiết (Dung Quất...) để phát triển thành khu kinh tế tổng hợp có nội dung hoạt động kinh tế rộng, đa chức năng, đan xen các yếu tố kinh tế với xã hội, phát triển công nghiệp gắn với thương mại dịch vụ, quá trình hình thành các KCN gắn với sự hình thành các khu dân cư, khu đô thị mới, khu du lịch, khu thương mại, sân bay, bến cảng và những công trình hạ tầng quan trọng khác. Lấy cả thương mại, dịch vụ và sản xuất làm trọng tâm, cân đối nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
Nghiên cứu phát triển mô hình KCN sinh thái với nội dung chính là tăng cường khả năng hợp tác kinh tế giữa các nhà máy trong KCN, tận dụng tối đa phế thải công nghiệp của nhà máy này để làm nguyên liệu thô cho các nhà máy khác có nguồn nguyên liệu phù hợp, nhằm tiết kiệm tài nguyên và giảm ô nhiễm môi trường.
Chấm dứt việc phát triển các cơ sở công nghiệp độc lập xen lẫn với khu dân cư. Kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN, trừ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích chiếm đất lớn vài trăm ha, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và vẫn phù hợp với quy hoạch.
Cải tạo các làng nghề truyền thống và các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành và phát triển các KCN nhỏ tại các vùng nông thôn có quy mô vài chục ha và thực hiện theo Quy chế KCN một cách linh hoạt hơn. Nhà nước hỗ trợ các KCN này thông qua các giải pháp: quy hoạch đất phát triển, mở đường giao thông, đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình xử lý chất thải, bảo lãnh tín dụng, áp dụng công nghệ thích hợp, tìm kiếm thị trường...
c- Phương hướng hoàn thiện công tác quản lý nhà nước các KCN Việt Nam trong thời gian tới
Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước các KCN Việt Nam cần được tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt sau:
- Hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển KCN.
- Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các KCN.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước các KCN.
- Tăng cường năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước các KCN.
Việc đổi mới hệ thống quản lý KCN cần đáp ứng những yêu cầu chủ yếu sau:
- Phản ánh được tính đặc thù của đối tượng quản lý, nhưng phải gắn chặt với hệ thống quản lý nhà nước nền kinh tế quốc dân.
- Hợp lý, rõ đầu mối, đủ thực quyền và trách nhiệm để đủ sức đảm đương nhiệm vụ quản lý các yếu tố đa dạng cấu thành hệ thống KCN: các Ban quản lý KCN (BQL KCN), các KCN với các quy mô và loại hình rất phong phú, các doanh nghiệp KCN, các công ty phát triển hạ tầng KCN (có thể là doanh nghiệp hoặc là đơn vị sự nghiệp có thu).
- Gọn, nhẹ, theo nguyên tắc “một cửa, tại chỗ”, tính độc lập cao, phân cấp nhiệm vụ rõ ràng, khả năng xử lý mau lẹ, nhằm tạo được sự hấp dẫn, thu hút đầu tư (nhất là FDI) vào KCN.
- Đủ trình độ và năng lực để điều hành, quản lý những thực thể gắn với sản xuất, kinh doanh và các sản phẩm công nghệ cao của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao
- Hệ thống luật pháp, chính sách KCN phải đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thực tiễn và với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước hướng tới một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Một vấn đề cần được quan tâm giải quyết tốt để đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống KCN trong giai đoạn tới là việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các KCN. KCN là đối tượng quản lý nhà nước đặc biệt: Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt và quyết định thành lập từng KCN, các doanh nghiệp trong KCN (doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài) đa số có công nghệ hiện đại hơn, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến hơn so với mặt bằng chung của các doanh nghiệp trên toàn quốc nên có năng lực sản xuất cao hơn và sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn. Tính “đặc thù” của KCN đòi hỏi phải có mô hình tổ chức quản lý đặc biệt, thể hiện ở vị trí, tính chất, loại hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ.
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước KCN rất đặc thù ở chỗ phải thực hiện quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, đặc biệt, nếu đối tượng quản lý nhà nước bao gồm cả các loại hình kinh tế tương tự (khu kinh tế mở, khu kinh tế tổng hợp...) thì tính đặc thù còn cao hơn. Tính đặc thù của tổ chức quản lý nhà nước KCN còn ở chỗ, BQL KCN cấp tỉnh chỉ được thành lập ở tỉnh nào có đủ điều kiện, cần thiết và phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và bổ nhiệm Trưởng ban. Việc đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước KCN cần được tiến hành theo hướng điều chỉnh lại bộ máy quản lý KCN ở cấp trung ương và củng cố hệ thống các BQL KCN cấp tỉnh đã được hình thành và phát huy hiệu quả quản lý trong thời gian qua.
Gắn chặt hơn nữa sự chỉ đạo của chính quyền địa phương đối với BQL KCN cấp tỉnh, nhất là trong giai đoạn đầu: quy hoạch đất phát triển, đền bù giải phóng mặt bằng, phát triển các công trình hạ tầng ngoài hàng rào và các vấn đề về quản lý lãnh thổ như lao động, trật tự an toàn xã hội, môi trường... Khi KCN có thu hút đầu tư và có nhiều doanh nghiệp hoạt động thì cần tăng cường sự hỗ trợ, hướng dẫn của các ngành trung ương: vận động thu hút đầu tư, thuế, mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ.../.