Tuy nhiên trong thời gian qua, vốn huy động của các NHTM và TCTD trên địa bàn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay đối với các thành phần kinh tế. Một tỷ trọng lớn vốn cho vay phải điều chuyển theo hệ thống các NHTM và TCTD ở nơi khác đến để cho vay, trong khi tiềm lực vốn trong dân còn rất lớn. Một tỷ lệ lớn người dân vẫn thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng vàng, bằng ngoại tệ,… các NHTM vẫn chưa huy động được để cho vay và cung ứng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì vốn huy động trung, dài hạn còn chiếm tỷ trọng thấp. Nguyên nhân của thực trạng trên được phân tích từ các khía cạnh sau:
Từ phía các ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng:
- Dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chủng loại chưa đa dạng, các NHTM chưa có nhiều loại dịch vụ mới. Chất lượng dịch vụ chưa cao. Nhìn chung, dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu, chưa hấp dẫn, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng; Hệ thống nghiệp vụ chưa định hướng theo khách hàng, còn nặng về các nghiệp vụ, dịch vụ truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại mới được đưa vào sử dụng chưa được các ngân hàng thực sự quan tâm. Số lượng máy ATM còn ít, các dịch vụ và chính sách hỗ trợ, quảng cáo còn hạn chế, tập quán người dân sử dụng phương tiện chủ yếu là tiền mặt, nên đối tượng chủ yếu của các NHTM, TCTD chỉ là cán bộ công nhân viên chức và một số khách hàng truyền thống.
Về vấn đề công nghệ: Tuy đã có bước phát triển tiến bộ về công nghệ ứng dụng, một số TCTD có khả năng tài chính và sự lựa chọn đầu tư đúng hướng, nên đã có những hệ cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng hoạt động rất hiệu quả, nhưng nhìn chung, vấn đề công nghệ vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc như: sự phát triển chưa đồng đều về công nghệ giữa các TCTD; tính đồng bộ của công nghệ còn thấp; hiệu quả chương trình phần mềm chưa đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh ngân hàng; một số TCTD vẫn sử dụng các phần mềm cũ, xử lý chậm và quản trị dữ liệu không cao, không phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay. Hạn chế rất nhiều đến sự phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng, nhất là hoạt động dịch vụ thanh toán. Từ đó tất yếu là hạn chế việc thu hút tiền gửi.
Bên cạnh đó, sự phối hợp liên kết trong phát triển công nghệ còn hạn chế, mang tính manh mún, mạnh ai nấy làm, thiếu tính đồng bộ, chính vì thế, hiệu quả mang lại nhìn từ góc độ vĩ mô chưa cao, lãng phí tài nguyên, hạn chế hiệu quả vốn đầu tư, mà điển hình là hệ thống máy ATM, mỗi ngân hàng tự phát triển, sử dụng thẻ riêng, vừa tốn kém, vừa không mang lại tiện ích cao cho khách hàng sử dụng.
Hiện nay, các NHTM, TCTD đang tích cực hiện đại hóa các nghiệp vụ ngân hàng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, nhằm cung cấp nhiều dịch vụ tiện lợi cho khách hàng. Tuy nhiên, so với cả nước thì vẫn ở trình độ trung bình. Cơ sở vật chất và trang thiết bị còn hạn chế, nên ảnh hưởng đến mở rộng thị phần kinh doanh. Hệ thống ATM quá ít về số lượng máy, mới chủ yếu được đặt tại trụ sở của chi nhánh ngân hàng. Các chi nhánh ở các huyện ngoại thành có chưa đáng kể.
Hệ thống máy chủ chưa đủ mạnh để mở rộng và phát tiển rộng rãi các sản phẩm phẩm dịch vụ, các máy PC tại chi nhánh vẫn đang sử loại có cấu hình thấp, không đủ mạnh để chạy các chương trình ứng dụng hiện đại.
- Quy trình thủ tục là yếu tố rất quan trọng để thu hút khách hàng gửi tiền, mua các loại giấy tờ có giá do các NHTM phát hành. Bởi vì nó liên quan đến thời gian giao dịch và cảm nhận của khách hàng về chất lượng phục vụ của ngân hàng. Các NHTM, TCTD đã có cố gắng rất nhiều để cải tiến quy trình, đưa ra dịch vụ giao dịch một cửa, đơn giản hóa thủ tục gửi tiền tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá… nhưng quy trình và thủ tục vẫn còn chưa được chuẩn hóa và có sự thay đổi giữa các chi nhánh, giữa các NHTM. Quy trình hiện nay được thiết kế theo sự tiện lợi của ngân hàng hơn là của khách hàng. Một số quy trình được sự hỗ trợ của công nghệ cho phép rút ngắn, giảm thiểu thủ tục không cần thiết, nhưng lại vướng mắc phải các qui định không được phép làm giao dịch khác chi nhánh, thay đổi thông tin khách hàng.
- Chưa có sự phân đoạn thị trường để có những sản phẩm huy động vốn, sản phẩm dịch vụ riêng cho từng nhóm khách hàng riêng biệt. Một chính sách marketing tốt phải đưa ra chiến lược quản lý khách hàng, trong đó việc thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu chí như vùng địa lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý, các yếu tố thuộc thói quen hành vi… Không phải mọi khách hàng đều có nhu cầu như nhau đối với các dịch vụ ngân hàng và mang lại lợi nhuận như nhau cho ngân hàng, nên cần có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp. Các sản phẩm hiện nay mà các NHTM, TCTD cung cấp ra thị trường mang tính chất đại trà cho tất cả các khách hàng, không có sự phân biệt tới từng nhóm đối tượng.
- Chi phí đầu tư phát triển các dịch vụ mới mà qua đó thu hút tiền gửi, nâng cao hiệu quả huy động vốn là rất lớn. Ví dụ như dịch vụ ATM, mỗi máy trị giá khoảng 30.000 USD, kèm theo khoảng 10 triệu đồng/máy chi phí khác trong quá tình vận hành mỗi tháng, như: thuê địa điểm, tiền điện, bảo vệ,…Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng hệ thống máy ATM của các NHTM trên địa bàn thành phố lại chưa cao. Hơn nữa, các ngân hàng thiếu sự hợp tác với nhau, mỗi ngân hàng theo đuổi một chiến lược riêng đối với cùng loại sản phẩm dịch vụ có nhiều điểm tương đồng, dẫn tới lãng phí trong đầu tư và làm tăng chi phí vận hành cũng như quản lý hệ thống. Khách hàng khi nhận thẻ ATM của ngân hàng nào phải đến chính hệ thống máy ATM của hệ thống ngân hàng đó lắp đặt mới có thể thực hiện được giao dịch, thực trạng này không chỉ hạn chế đáng kể tới việc sử dụng thẻ của khách hàng, mà còn gây lãng phí đối với nền kinh tế.
- Hệ thống thông tin chưa thực sự có hiệu quả, bao gồm cả thu thập và xử lý thông tin về huy động vốn, về cân đối và kinh doanh vốn.
- Tỷ lệ thu dịch vụ vẫn là quá nhỏ so với thu từ các nghiệp vụ khác và so với tiềm năng phát triển của các chi nhánh NHTM, cũng như mỗi NHTM.
- Hoạt động quản trị và điều hành huy động vốn, kinh doanh vốn chưa theo hướng ngân hàng kinh doanh hiện đại. Hoạt động quản trị và điều hành của các NHTM, TCTD mặc dù đã có những cải tiến đáng kể, nhưng vẫn chưa phải là mô hình quản lý hướng vào khách hàng. Việc quản lý được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh doanh, chưa theo nhóm khách hàng nên việc nắm bắt nhu cầu khách hàng để phát triển sản phẩm, dịch vụ cũng như phát triển ra thị trường mới còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý, các phòng nghiệp vụ còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng, gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng.
Nguyên nhân từ phía nền kinh tế
- Sự tồn tại những vấn đề trong quan hệ kinh tế thương mại của khách hàng, của doanh nghiệp như: gian lận thương mại; trốn thuế, tham ô, khai khống để hưởng thuế VAT là khó tránh khỏi. Các doanh nghiệp, khách hàng này chủ yếu quan hệ thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, vì vậy đã làm hạn chế các giao dịch thanh toán qua ngân hàng.
- Một số ngành như điện, nước, bưu điện, thuế, hải quan, xăng dầu... có số thu bằng tiền mặt lớn, nhưng chưa sẵn sàng chấp nhận các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, chưa thật sự tạo điều kiện cần thiết cho các dịch vụ thanh toán qua tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng, mà vẫn còn thu tiền mặt là chủ yếu.
- Công nghệ thông tin chưa phát triển như mong muốn. Đặc biệt là đường truyền dữ liệu của các TCTD phụ thuộc vào chất lượng đường truyền của ngành Bưu chính viễn thông, các TCTD trên địa bàn không chủ động được đường truyền. Sự nghẽn mạch hoặc tốc độ truyền chậm thường xuyên xảy ra. Vì vậy, đã tác động hạn chế hiệu quả của hoạt động dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ thanh toán; dịch vụ chuyển tiền điện tử... và các quan hệ giao dịch khác trên mạng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
Các NHTM cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đưa ra một số hình thức mới gắn với nhu cầu của đông đảo khách hàng. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần linh hoạt trong việc xác định lãi suất thu hút tiền gửi, lãi suất huy động vốn.
1. Đẩy mạnh công tác marketing thu hút khách hàng gửi tiền
Nhiệm vụ của hoạt động ngân hàng là thu hút được một khối lượng khách hàng lớn thuộc mỗi tầng lớp dân cư với thu nhập, tâm lý và sở thích khác nhau, nên việc ứng dụng các nguyên tắc của marketing trong quản lý quan hệ khách hàng có một ý nghĩa quan trọng. Đó là một chiến lược kinh doanh để liên kết, phối hợp những người có kỹ năng giao tiếp với quy trình tối ưu và công nghệ hiện đại, nhằm cân bằng được 2 lợi ích: lợi nhuận thu được của ngân hàng và sự hài lòng tối đa của khách hàng. Với thực tế hoạt động bán lẻ của mình, để làm tốt công tác marketing, các NHTM cần thực hiện các biện pháp sau:
- Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về các dịch vụ ngân hàng, các hình thức và chính sách huy động vốn, thu hút tiền gửi,… để đông đảo dân chúng biết về các dịch vụ ấy. Quan sát tại một số điểm giao dịch, nhiều khách hàng đang sử dụng các sản phẩm thu hút tiền gửi, sản phẩm huy động vốn của các NHTM nhưng cũng chưa biết hết tiện ích của sản phẩm đó. Vì vậy, trước mắt, nên đa dạng các loại tờ rơi, sách giới thiệu để sẵn phía ngoài quầy giao dịch để khách hàng có thể đọc khi đến giao dịch.
- Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng, tạo cho các khách hàng cảm giác được tôn trọng mỗi khi đến ngân hàng. Bộ phận này có chức năng hướng dẫn khách hàng lần đầu giao dịch khai báo thông tin, trả lời các thắc mắc của khách hàng, tư vấn, giới thiệu về các sản phẩm của ngân hàng cho khách hàng, xây dựng văn hóa giao dịch của từng NHTM. Nét văn hóa đó thể hiện qua phong cách, thái độ văn minh, lịch sự của đội ngũ nhân viên bán lẻ, cách trang phục riêng, mang nét đặc trưng của từng NHTM.
Các tổ chức tín dụng cần tiến hành phân khúc thị trường và khách hàng để xác định một cách hợp lý thị trường và khách hàng mục tiêu, có chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong đó, các tổ chức tín dụng chú trọng mở rộng các dịch vụ ngân hàng đến tất cả đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng phát triển kinh tế trọng điểm.
Các ngân hàng cần xây dựng được những chiến lược marketing phù hợp, bao gồm các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến đông đảo khách hàng để tạo điều kiện cho khách hàng làm quen với các dịch vụ ngân hàng và nhận thức được tiện ích của những sản phẩm dịch vụ này.
- Công bố các thông tin tài chính để người dân tiếp cận, nắm bắt nhằm thu hút người dân quan hệ với ngân hàng và hạn chế được những rủi ro về thông tin.
2. Đẩy mạnh đầu tư cho hoàn thiện và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng một cách đồng bộ
Để chất lượng dịch vụ huy động vốn của các NHTM có thể đáp ứng được các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi công nghệ phải không ngừng được cải tiến, hiện đại và nâng cấp để thực sự trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhân viên ngân hàng.
Lựa chọn đúng công nghệ để ứng dụng trong hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh của các TCTD có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển các hoạt động dịch vụ, tăng quy mô vốn huy động một cách vững chắc, quyết định hiệu quả vốn đầu tư.
Trong lĩnh vực thẻ, hầu hết các NHTM vẫn sử dụng công nghệ thẻ từ có tính bảo mật yếu, trong khi trên thế giới đã chuyển sang sử dụng công nghệ thẻ chíp. Theo tiêu chuẩn EMV của các tổ chức thẻ quốc tế, từ năm 2006, nếu các ngân hàng thành viên trong khu vực châu á -Thái Bình Dương không chuyển sang dùng công nghệ thẻ chíp sẽ phải chịu một khoản phạt hàng năm là 50.000 USD. Vậy, các NHTM cần sớm nâng cấp công nghệ thẻ hiện có, đưa thẻ chíp vào sử dụng.
Trong việc mở rộng mạng lưới ATM, các NHTM nên nghiên cứu để có thể đầu tư lắp đặt những máy ATM thế hệ mới, cho phép nạp tiền qua máy, tránh bị lạc hậu khi các ngân hàng nước ngoài vào cuộc.
3. Thực hiện chiến lược cạnh tranh huy động vốn năng động và hiệu quả
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường. Do vậy, các NHTM muốn tồn tại và phát triển, không có cách nào khác hơn là phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, bằng cách thiết lập một chiến lược cạnh tranh năng động và hiệu quả. Nội dung của chiến lược này bao gồm:
- Tổ chức nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Đây là công việc quan trọng để thực hiện chiến lược cạnh tranh có hiệu quả của các NHTM. Việc nghiên cứu phải thường xuyên, trên cơ sở so sánh sản phẩm, giá cả (lãi suất), các hoạt động quảng cáo, mạng lưới ngân hàng... với các đối thủ gần gũi (các ngân hàng cùng địa bàn). Với cách làm này có thể xác định được các lĩnh vực cạnh tranh thuận lợi và bất lợi. Nhằm tạo thuận lợi cho các chủ ngân hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh, việc nghiên cứu các đối thủ là một nội dung quan trọng của marketing ngân hàng.
* Phải tạo được lòng tin cao độ đối với khách hàng: Lòng tin được tạo bởi hình ảnh bên trong của NHTM, đó là: số lượng, chất lượng của sản phẩm dịch vụ cung ứng, trình độ và khả năng giao tiếp của đội ngũ nhân viên, trang bị kỹ thuật công nghệ, vốn tự có và khả năng tài chính, đặc biệt là hiệu quả và an toàn tiền gửi, tiền vay... và hình ảnh bên ngoài của ngân hàng, đó là địa điểm, trụ sở, biểu tượng... đã trở thành tài sản vô hình của NHTM.
* Phải tạo được sự khác biệt của ngân hàng: Một con người hay một ngân hàng cũng vậy, phải có những đặc điểm phân biệt giữa ngân hàng này với ngân hàng khác. Hoạt động của NHTM cũng phải tạo ra những đặc điểm - hình ảnh của mình, cái ngân hàng mình có mà ngân hàng khác không có. Như vậy, marketing của NHTM phải tạo ra sự khác biệt về hình ảnh của ngân hàng mình. Đó là sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ cung ứng ra thị trường; lãi suất; kênh phân phối; hoạt động quảng cáo khuếch trương - giao tiếp.
* Đổi mới phong cách giao dịch:
Đổi mới tác phong giao tiếp, đề cao văn hóa kinh doanh là yêu cầu cấp bách đối với cán bộ, nhân viên các NHTM hiện nay, có như vậy mới tiến kịp với tiến trình hội nhập toàn cầu. Đặc biệt là với phong cách thân thiện, tận tình, chu đáo, cởi mở,… tạo lòng tin cho khách hàng gửi tiền. Thực hiện đoàn kết nội bộ, kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh doanh, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của ngành. Bằng nhiều chính sách động viên, khuyến khích cán bộ công nhân viên và chính sách khách hàng để thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
Một số giải pháp khác
- Nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng truyền thống, phát triển hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
- Phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử.
- Nhanh chóng mở rộng dịch vụ mới, tăng cường các khoản thu từ dịch vụ.
- Tham gia bảo hiểm các dịch vụ ngân hàng (tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam).
- Quản trị điều hành ngân hàng theo hướng tiến dần đến chuẩn mực quốc tế, nhất là phù hợp với các quy định của ngân hàng thanh toán quốc tế.
- Xây dựng và đào tạo đội ngũ chuyên viên tư vấn.
Tài liệu tham khảo:
- htpt://www Economis.com
- www.bloomberg.com
- Các website của các ngân hàng thương mại
- Báo cáo thường niên các năm 2001 - 2005 của NHNN