Trong tháng 8 và tháng 9 năm 2003, đoàn chuyên gia nhuộm hoàn tất của Viện Nghiên cứu dệt Hàn Quốc (KITECH) cũng đã tham gia và khảo sát tình hình ở 12 xí nghiệp nhuộm - hoàn tất của VINATEX. Trớc đó, Công ty TOKAI (Nhật Bản) cũng đã tiến hành khảo sát 2 công ty là Dệt 8/3 và Dệt Nam Định.
Các đánh giá của KITECH, TOKAI và thực tế của tổ công tác cho thấy, ngành nhuộm - hoàn tất của VINATEX hiện đang đứng trớc những thử thách và khó khăn cực lớn.
1. Nhuộm - Hoàn tất, khâu in tiền và đốt tiền.
Đó là nhận xét của hầu hết các giám đốc ngành dệt, khi nói về vai trò của khâu nhuộm - hoàn tất trong toàn bộ dây chuyền sản xuất của ngành Dệt, từ bông đến kéo sợi, dệt vải và hoàn tất.
Từ vải mộc, sản phẩm của khâu dệt, vốn giá trị còn rất thấp, thì qua khâu nhuộm hoàn tất (nhuộm, in hoa, xử lý chống co, chống nhàu…) nó trở thành vải thành phẩm và giá trị được nâng lên gấp nhiều lần, nếu các khâu nói trên đều được tiến hành một cách hoàn hảo. Nhưng cũng với những khâu đó, cùng với những máy móc thiết bị đó, nếu qui trình công nghệ không được đảm bảo, các tiêu chuẩn kỹ thuật không được thực hiện một cách nghiêm ngặt, thì số lượng sản phẩm đó lại trở thành phế phẩm, phải bán hạ giá, thậm chí không tiêu thụ được.
Theo báo cáo của Vinatex, trong giai đoạn 1996-2003, các doanh nghiệp của Vinatex đã đầu tư hơn 850 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung máy móc thiết bị công nghệ nhuộm, hoàn tất. Song kết quả lại không như mong muốn, chất lượng của phần lớn sản phẩm của các xí nghiệp in nhuộm, hoàn tất trong Vinatex vẫn cha đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể là:
- Tỷ lệ nhuộm đúng ngay từ mẻ đầu (RET) của các xí nghiệp nhuộm đều rất thấp, trung bình chỉ đạt 45-50%; cơ sở tốt nhất mới chỉ đạt 75%, trong khi đó, tỷ lệ này ở nước ngoài thường rất cao, khoảng 90%.
- Tỷ lệ chỉnh sửa và tái chế cao, hiện tượng sai lệch màu giữa các mẻ hàng là phổ biến, khả năng lặp lại thấp. Tỷ lệ nhuộm lại do sai màu chiếm từ 15-25%, cơ sở làm tốt nhất cũng chỉ đạt khoảng 6-7%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các xí nghiệp nhuộm nước ngoài (các cơ sở 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam) chỉ khoảng 1-4%.
Kết quả đó cho thấy, ở Việt Nam có đến 20% sản phẩm bị xếp loại phế phẩm khi qua khâu nhuộm hoàn tất và chỉ có khoảng 20-25% sản lượng vải thành phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ được cho may xuất khẩu.
2. Mọi cố gắng cho đến nay, đều chỉ là… tự phát.
Cũng theo đánh giá của Vinatex, mặc dầu số tiền huy động cho đầu tư vào khâu nhuộm, hoàn tất trong thời gian qua không phải là nhỏ, song các hoạt động đầu tư này mới chỉ tập trung vào bổ sung thiết bị còn thiếu trong dây chuyền và nâng cấp các thiết bị hiện có. Tính đồng bộ giữa thiết bị mới và thiết bị hiện có hầu như không được tính đến. Không những thế, việc đầu tư thường được thực hiện một cách phân tán, chạy theo các mặt hàng khi thị trường có nhu cầu, chứ chưa có chiến lược đầu tư dài hạn và kế hoạch bước đi cụ thể trong từng giai đoạn, vì hầu hết các doanh nghiệp đều không có mặt hàng chủ lực hay mặt hàng chiến lược của mình.
Chính vì vậy mà xảy ra hiện tượng trùng lắp giữa các sản phẩm của các doanh nghiệp cùng trong Tổng Công ty, cộng thêm với sự thiếu hợp tác giữa các đơn vị, nên gây ra hiện tượng cạnh tranh lẫn nhau, làm giảm sức mạnh chung của Vinatex.
Cũng từ nguyên nhân đầu tư tự phát, không có chiến lược dài hạn và bước đi cụ thể, chỉ đơn thuần chạy theo nhu cầu trước mắt, ngắn hạn mà hầu hết các thiết bị đều có hiệu suất khai thác thấp. Nhiều mặt hàng sản xuất chưa tương xứng với đẳng cấp thiết bị đã được đầu tư (thiết bị hiện đại, vốn đầu tư lớn, nhưng sản xuất mặt hàng đơn giản, sản lượng thấp…). Có người ví hiện tượng đó như “dùng dao mổ trâu để giết gà!”.
Tính tự phát trong đầu tư của các doanh nghiệp còn được thể hiện ở chỗ, kỹ thuật công nghệ được đầu tư còn ở trình độ thấp, chưa đạt đợc mức độ chuyên sâu, vì các doanh nghiệp cùng một lúc sản xuất nhiều mặt hàng, sử dụng quá nhiều loại công nghệ và thiết bị (nhiều doanh nghiệp vừa sử dụng công nghệ dệt thoi, vừa sử dụng công nghệ dệt kim. Riêng công đoạn nhuộm cũng có rất nhiều công nghệ được sử dụng như nhuộm liên tục, nhuộm gián đoạn, nhuộm tận trích, in hoa…).
Đã có một thời, do khó khăn về thị trường tiêu thụ (giai đoạn đầu khi thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý), mà xu thế đa dạng hóa sản phẩm, dẫn đến đa dạng hóa công nghệ được xem là cứu cánh và đã từng ngự trị ở nhiều doanh nghiệp. Kết quả tất yếu của quá trình không chuyên môn hóa đó là hầu hết các doanh nghiệp đều gặp tình trạng chung là chưa có các chuyên gia sâu trong từng lĩnh vực cụ thể. Rất ít cán bộ kỹ thuật có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm để nắm được các bí quyết công nghệ.
Ngoài việc thiếu lực lượng cán bộ kỹ thuật được bổ sung, thay thế lực lượng cũ đã cao tuổi, hệ thống thí nghiệm không được chú ý đầu tư thích đáng, tương thích với hệ thống thiết bị đang huy động vào sản xuất, đã tạo ra sự sai lệch lớn giữa thí nghiệm và sản xuất đại trà, cộng với lực lượng cán bộ hiện có không được thường xuyên cập nhật các kiến thức về kỹ thuật và công nghệ mới, nên khó kiểm soát và làm chủ được công nghệ hiện có, vì vậy, việc khai thác các kỹ thuật, công nghệ mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá, hầu hết các doanh nghiệp nhuộm hoàn tất trong Ngành mới chỉ sử dụng khoảng 65-75% công suất thiết bị được đầu tư, nhưng cũng không ổn định và thường xuyên.
Thực trạng chất lượng các sản phẩm nhuộm - hoàn tất của ngành Dệt Việt Nam như vậy, nên việc liên kết giữa Dệt-May rất khó triển khai thực hiện và mãi vẫn chỉ là… khẩu hiệu.
3. Nhanh chóng tổ chức lại sản xuất khâu nhuộm - hoàn tất trong ngành Dệt - May Việt Nam - Muộn còn hơn không.
a. Chuyên môn hóa là điều kiện bắt buộc:
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng chất lượng sản phẩm nhuộm - hoàn tất kém là do tính chuyên môn hóa kém, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực, kể cả lực lượng cán bộ kỹ thuật và công nhân vận hành đều yếu và thiếu kinh nghiệm, mặc dầu có nhiều loại thiết bị mới, đắt tiền. Chuyên môn hóa sâu ở từng doanh nghiệp, tạo nên sự khác biệt về mặt hàng giữa các doanh nghiệp chính là điều kiện tốt nhất để đa dạng hóa sản phẩm ở qui mô toàn Ngành.
Mặt hàng chiến lược của từng doanh nghiệp được lựa chọn không phải chỉ xuất phát từ mức nhu cầu cao của thị trường, mà còn phải căn cứ vào khả năng sản xuất (năng lực thiết bị hiện có và khả năng đầu tư trong tương lai), giá thành sản xuất (so với các doanh nghiệp khác trong Ngành) để có được chi phí “cá biệt” thấp nhất, từ đó có lợi nhuận cao nhất.
Việc đa dạng hóa sản phẩm (mặt hàng) của doanh nghiệp chỉ nên phát triển trên nền các máy móc và thiết bị hiện có, không nên quá khác biệt với mặt hàng chiến lợc, để tránh việc phải tăng thêm hay thay đổi toàn bộ qui trình sản xuất và qui trình công nghệ hiện có.
Sau khi lựa chọn được mặt hàng chiến lược và các mặt hàng bổ trợ, các doanh nghiệp cần cân đối dây chuyền sản xuất của mình, điều chuyển các máy móc thiết bị không cần sử dụng đến cho các đơn vị khác, để bổ sung vốn cho việc đồng bộ hóa và nâng cấp dây chuyền thiết bị phục vụ cho mặt hàng chiến lược.
Để thực hiện tốt việc phân công sản xuất và điều chuyển thiết bị khi cần thiết, cần có sự tham gia của Tổng Công ty với tư cách là chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp cùng các cơ quan chức năng để giải quyết các vấn đề về tài chính cho phù hợp.
ở các giai đoạn tiếp sau, để tránh lặp lại tình trạng “trăm hoa đua nở” như giai đoạn trước, cần có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan Tổng Công ty đối với việc đầu tư của các doanh nghiệp thành viên, bảo đảm mọi dự án đầu tư đều theo hướng chuyên môn hóa, xoay xung quanh trục là sản phẩm chiến lược của doanh nghiệp.
Đối với các nhà máy mới xây dựng (nằm trong các cụm Dệt-May), tính chuyên môn hóa cần phải được tính toán ngay từ khâu thiết kế, lập dự án… đảm bảo sự liên kết và tương thích giữa sợi -dệt-nhuộm trong nội bộ cụm, có tính đến việc liên kết giữa các vùng, vì các cụm dệt-may được hình thành với mục tiêu là trung tâm Dệt-May của một vùng hoặc tiểu vùng.
b. Lựa chọn cơ chế quản lý thích hợp - động lực chính để thúc đẩy các doanh nghiệp nhuộm- hoàn tất phát triển.
Hiện tại, các nhà máy nhuộm hoàn tất đều nằm trong các công ty dạng liên hợp sợi-dệt-nhuộm, hoàn tất, nên chịu sự chi phối chung của toàn công ty, bao gồm nhiều mặt hoạt động như kế hoạch sản xuất - kinh doanh, cơ chế tiền lương… điều đó làm hạn chế tới sự năng động, tự chủ của các nhà máy nhuộm. Đặc biệt, cơ chế tiền lương không thích hợp cũng hạn chế sự sáng tạo của các cán bộ kỹ thuật làm việc trong khâu nhuộm - hoàn tất và vì vậy, đã không giữ được cán bộ giỏi chuyên môn gắn bó với nghề.
Bên cạnh đó, mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong các xí nghiệp liên hợp với nhà máy nhuộm thành viên không rõ ràng, đã làm giảm hiệu quả hoạt động của các nhà máy nhuộm. Thực tế cho thấy, một phần chất lượng vải thành phẩm không cao, có nguyên nhân từ lỗi của khâu dệt, nhưng vì hai khâu dệt và nhuộm đều là thành viên của công ty liên hợp, nên một số doanh nghiệp có quan niệm sai lầm là khâu nhuộm - hoàn tất sẽ khắc phục được các lỗi của khâu dệt, và không quan tâm nâng cao chất lượng vải mộc. Điều đó càng làm cho vải thành phẩm của các doanh nghiệp thuộc Vinatex kém chất lượng, không đáp ứng được cho may xuất khẩu.
Bản thân các nhà máy nhuộm, do cũng chỉ là một đơn vị thành viên không hạch toán hoặc chỉ hạch toán báo sổ, nên đã không có ý thức cao trong việc giảm chi phí sản xuất. Hiện tượng lãng phí các loại nguyên nhiên liệu, năng lượng như điện, hơi, nước, hóa chất, thuốc nhuộm… xảy ra phổ biến đối với hầu hết các nhà máy nhuộm của Ngành.
Trong khi hầu hết các nhà máy nhuộm của Vinatex đều gặp khó khăn trong sản xuất, thậm chí nhiều nhà máy lỗ thì các doanh nghiệp nhuộm của các thành phần kinh tế khác (tư nhân và nước ngoài) sản xuất ngày càng phát triển. Một ví dụ sinh động là liên doanh Domatex đợc thành lập từ năm 1993 mà Vinatex là một cổ đông, thì sản xuất kinh doanh luôn có lãi; lợi nhuận hàng năm đạt khoảng 5-12%.
Xuất phát từ nguyên nhân cơ bản đó, việc tìm một cơ chế quản lý thích hợp cho các xí nghiệp nhuộm đã trở nên cấp bách. Thực tế cho thấy, nếu trao quyền tự chủ cho các xí nghiệp nhuộm, hiệu quả của khâu sản xuất này sẽ được nâng lên. Trường hợp liên hợp Dệt Nam Định là một minh chứng. Khi Nhà máy Nhuộm được giao quyền tự chủ về tài chính (tự hạch toán, tự mua hóa chất, thuốc nhuộm) được ký các hợp đồng làm thêm… hiệu quả sản xuất kinh doanh đã từng bước được nâng lên. Từ chỗ lỗ nặng, Nhà máy đã giảm được lỗ và bước đầu cân bằng được thu chi.
Rõ ràng, đây là một mô hình tốt mà các công ty liên hợp cần trao đổi để rút ra bài học kinh nghiệm. Trước mắt, khi chưa tổ chức lại sản xuất được ở qui mô toàn Ngành, cần thực hiện khoán chi phí cho các nhà máy nhuộm trong các công ty liên hợp.
Bên cạnh đó, trong tiến trình sắp xếp lại các doanh nghiệp của Ngành, cần nhanh chóng tiến hành CPH các nhà máy nhuộm của Vinatex. Trong trường hợp chưa thể CPH cả nhà máy liên hợp, có thể tiến hành CPH khâu nhuộm hoàn tất trước, theo hình thức CPH một bộ phận doanh nghiệp. Trong quá trình CPH, để tăng cường sự liên kết và tạo sự gắn bó lâu dài giữa Dệt và May, cần vận động các xí nghiệp may tham gia mua cổ phần của các nhà máy nhuộm.
c. Tăng cờng công tác tiêu chuẩn hóa - nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Bên cạnh hai giải pháp quan trọng đã nêu ở trên, nhằm tái cơ cấu lại các doanh nghiệp nhuộm, cần tiến hành đồng thời công tác tiêu chuẩn hóa trên các mặt sau:
- Đầu tư cho lực lượng nghiên cứu thí nghiệm mà nòng cốt là Viện Kinh tế kỹ thuật Dệt-May, đảm bảo có hệ thống thiết bị thí nghiệm đo kiểm hiện đại, tương xứng với công nghệ sản xuất, để có thể kiểm soát được chất lượng sản phẩm một cách chủ động, khắc phục sự khác biệt lớn giữa sản phẩm thí nghiệm và sản phẩm sản xuất đại trà.
Viện Kinh tế kỹ thuật Dệt-May sẽ phải cùng các chuyên gia giỏi trong Ngành xây dựng cho được các qui trình công nghệ chuẩn mực, cùng hệ thống kiểm tra, giám sát cho một số sản phẩm trọng yếu.
- Tiêu chuẩn hóa nguyên liệu và các chi phí đầu vào, bao gồm chất lượng vải mộc, chất lượng thuốc nhuộm và các loại chất trợ nhuộm… kể cả chất lợng nớc. Định mức tiêu hao năng lượng, hơi, nớc, hóa chất… phù hợp để tiết giảm chi phí, kiểm soát chặt chẽ qui trình công nghệ.
Đây là những biện pháp quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng vải thành phẩm, tăng tỷ lệ thành phẩm, giảm phế phẩm, từ đó trực tiếp làm giảm giá thành và tăng khả năng cạnh tranh.
- Tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực bằng cách thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao chất lượng lao động, bao gồm cả đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật.
Hiện tại, lực lợng cán bộ kỹ thuật được đào tạo chuyên ngành hóa nhuộm ngày càng ít, mà chủ yếu từ các ngành hóa khác chuyển sang, vừa làm vừa học, nên rất cần được đào tạo lại và đào tạo nâng cao. Để khắc phục hiện tượng thiếu hụt cán bộ kỹ thuật cho ngành Dệt-May nói chung và khâu nhuộm, hoàn tất nói riêng, Tổng Công ty cần chủ động hỗ trợ học bổng cho các sinh viên học chuyên ngành nhuộm.
Thực tế cho thấy, chất lợng nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lượng công nhân trực tiếp đứng máy, quyết định tới 90% chất lượng của vải thành phẩm. Chính vì vậy, bên cạnh việc tiêu chuẩn hóa qui trình công nghệ, còn cần phải thường xuyên giáo dục và huấn luyện cho đội ngũ công nhân ý thức tổ chức kỷ luật, tuân thủ qui trình qui phạm một cách tự giác. Có chế độ thưởng phạt nghiêm minh và kịp thời.
Trên cơ sở nhân lực hiện có của Ngành, cần tập trung các chuyên gia giỏi để thành lập ở Tổng Công ty một bộ phận chuyên trách, quản lý chuyên sâu về công nghệ, thiết bị và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực in- nhuộm - hoàn tất. Bộ phận này sẽ cùng với Viện Kinh tế - kỹ thuật Dệt-May xây dựng nên hệ thống các định mức và qui trình công nghệ chuẩn, đồng thời giúp các doanh nghiệp khắc phục các sự cố kỹ thuật và tiếp cận với các thiết bị và công nghệ hiện đại, kể cả việc tham mưu giúp Ban lãnh đạo Tổng Công ty duyệt các dự án đầu tư cho phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn Ngành.
Hy vọng, với các giải pháp đồng bộ, các nhà máy nhuộm - hoàn tất sẽ sớm khắc phục được những yếu kém của mình, góp phần nâng cao giá trị các sản phẩm dệt - May Việt Nam.
Nhanh chóng tổ chức lại sản xuất trong khâu Nhuộm - Hoàn tất của ngành Dệt Việt Nam - Muộn còn hơn không.
Ngành Dệt - May Việt Nam: Tổ chức lại sản xuất trong khâu nhuộm - hoàn tất - Muộn còn hơn không
TCCT
Tháng 7 năm 2003, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam, một tổ công tác trong lĩnh vực in nhuộm được thành lập, nhằm tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt độ