Để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

I. Đánh giá khái quát quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Từ năm 1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960), Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá đ

Những kết quả và thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH đó là: CNH, HĐH trở thành sự nghiệp của quần chúng; Từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực; Đảm bảo sự tăng trưởng khá cao và bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; Trong tổ chức thực hiện CNH, HĐH đã xác định đúng trọng tâm, áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, phong phú để huy động mọi lực lượng tham gia.

Tuy nhiên CNH, HĐH trong những năm đổi mới của nước ta còn một số tồn tại, khuyết điểm, yếu kém đó là:

Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập với thế giới mới chỉ đạt được kết quả bước đầu, chưa có chiến lược, chính sách cụ thể trong việc xác định mục tiêu, nội dung, bước đi trong phát triển các ngành có ý nghĩa quyết định tới trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân như: cơ khí, điện tử, hoá chất, luyện kim...

Nền kinh tế vẫn ở tình trạng nhập siêu. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu chưa thể hiện đầy đủ mục tiêu xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập kinh tế, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là một số nông sản, hàng gia công, hàng thủ công mỹ nghệ. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị...

- Nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong những năm đổi mới vừa qua, nhưng sự phát triển kinh tế không bền vững, hiệu quả chưa cao, chất lượng phát triển thấp.

- Về cơ cấu kinh tế, những ngành có sự tăng trưởng cao là những ngành có giá trị gia tăng thấp, chi phí lao động lớn, chủ yếu làm gia công cho nước ngoài, ví dụ giầy dép 86% nguyên liệu nhập. Công nghiệp chế biến phát triển còn ở trình độ thấp, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới. Với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản thì chủ yếu là chế biến thô, chưa chế biến sâu, nhiều nông sản tỷ lệ chế biến còn thấp như chè 55%; rau quả: 5%; thịt: 1%. Với các ngành chế biến khác thì cơ cấu mặt hàng chế biến còn nghèo, trình độ và chất lượng sản phẩm chế biến còn thấp.

- Khả năng cạnh tranh của sản phẩm do Việt Nam sản xuất còn kém.

- CNH, HĐH ở Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nhưng chậm và hiệu quả chưa cao, chưa thúc đẩy sự liên kết kinh tế giữa trong nước với nước ngoài, giữa các ngành kinh tế, các địa phương, các doanh nghiệp.

II. Đề xuất một số giải pháp CNH, HĐH trong những năm tới

1. Quan điểm CNH, HĐH

- Phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

- Thực hiện CNH, HĐH nhanh và rút ngắn.

Việt Nam thực hiện CNH, HĐH trong điều kiện hội nhập, trong điều kiện khoa học - công nghệ trên thế giới diễn ra như vũ bão, đặc biệt là trong điều kiện của kinh tế tri thức, do đó nước ta có khả năng và cần thiết phải CNH, HĐH nhanh và rút ngắn nếu không muốn tụt hậu.

Để CNH, HĐH nhanh và rút ngắn, Việt Nam phải lựa chọn mô hình kiểu mới, thực hiện CNH, HĐH thích hợp. Đó là mô hình áp dụng kinh tế tri thức trong lựa chọn phát triển các ngành, lựa chọn công nghệ để phát triển nhanh và phát triển các lĩnh vực công nghệ cao mà ta có khả năng như: điện tử, sinh học; phải xuất khẩu và xuất khẩu qua chế biến sâu những mặt hàng mà ta có lợi thế so sánh.

Phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.

CNH, HĐH phải thực hiện trên cơ sở nâng cao chất lượng của sự phát triển nền kinh tế quốc dân và phải nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp và của các sản phẩm.

2. Các giải pháp CNH, HĐH và phát triển công nghiệp.

2.1. Coi trọng công tác quy hoạch và nâng cao chất lượng các quy hoạch.

Quy hoạch là công cụ cực kỳ quan trọng, nó định hướng dài hạn và đảm bảo sự đồng bộ trong sự phát triển dài hạn. Mọi cấp, mọi ngành phải làm quy hoạch và vấn đề then chốt là phải nâng cao chất lượng các quy hoạch.

- Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ngành, các địa phương đều phải làm quy hoạch kịp thời, có chất lượng cho phát triển các vùng, nhất là vùng trọng điểm, phát triển các ngành bao gồm cả quốc doanh và ngoài quốc doanh, ở các địa phương. Phải đảm bảo sự ăn khớp giữa quy hoạch: ngành, vùng và thành phần kinh tế, trong đó quy hoạch ngành là quan trọng nhất.

- Phải có sự ăn khớp và thống nhất giữa quy hoạch tổng thể với quy hoạch các ngành, các vùng; giữa quy hoạch phát triển ngành, phát triển vùng với quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị, cũng như quy hoạch dân cư, quy hoạch mạng lưới giao thông vận tải; giữa quy hoạch xây dựng nhà máy với quy hoạch vùng nguyên liệu.

- Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành và quy hoạch địa phương, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cho doanh nghiệp mình.

- Để nâng cao chất lượng quy hoạch, cần đổi mới phương pháp và tổ chức làm quy hoạch.

- Về phương pháp, làm quy hoạch phải trên cơ sở nghiên cứu thị trường và trên cơ sở phát triển công tác dự báo, thông qua đánh giá tác động của thị trường, của dân số, đánh giá được xu thế tiến bộ khoa học - công nghệ và sự tác động của nó tới sự phát triển của kinh tế - xã hội, của ngành, vùng và doanh nghiệp.

- Về tổ chức làm quy hoạch, đây là trách nhiệm của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều người trong đó có 1 cơ quan chủ trì và phối hợp.

2.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

Cạnh tranh vừa là sức ép, vừa là động lực thúc đẩy phát triển và đổi mới. Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn yếu kém để hội nhập với thế giới. Khi tham gia AFTA và WTO, tất yếu khách quan đòi hỏi phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

Trước hết, phân loại các mặt hàng thành 3 loại, căn cứ vào khả năng cạnh tranh. Một là, các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao. Hai là các mặt hàng có điều kiện trở thành mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước và cố gắng của doanh nghiệp. Ba là, các mặt hàng không có khả năng cạnh tranh. Căn cứ vào sự phân loại đó để có chính sách thúc đẩy phát triển thích hợp.

Hai là, áp dụng các biện pháp toàn diện và đồng bộ để nâng cao khả năng cạnh tranh.

- Đối với quốc gia, cần nâng cao chất lượng của sự phát triển, tức là có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở tiến bộ khoa học - công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri thức, cũng như tăng cường quản lý. Cần hình thành những ngành chủ lực và những ngành mũi nhọn trong xuất khẩu. Nên chú ý phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp và xuất khẩu như những ngành sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng. Cần có chính sách bảo hộ có lựa chọn, thực hiện hỗ trợ đầu vào thay cho hỗ trợ đầu ra.

Nhà nước cần xây dựng và thực hiện Luật Cạnh tranh và chống độc  quyền.

- Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp là khâu quyết định khả năng cạnh tranh. Vì vậy, cần áp dụng các biện pháp toàn diện và có hiệu quả để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và từng mặt hàng, trong đó cần chú ý các biện pháp: Giảm chi phí đầu vào và hạ giá thành sản phẩm; Nâng cao chất lượng sản phẩm và chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; Xây dựng thương hiệu cho mọi sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu.

Các biện pháp trên chỉ có thể đạt được khi sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp, đặc biệt là khi các doanh nghiệp coi trọng đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ không có nghĩa là phải áp dụng công nghệ hiện đại cần nhiều vốn, mà là lựa chọn công nghệ thích hợp, đảm bảo sự thích hợp với thị trường, với vốn và khả năng của doanh nghiệp.

2.3. Đổi mới đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.

Để đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH, phải đổi mới căn bản và đồng bộ việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Đây là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhưng trong những năm trước mắt, cần chú ý một số biện pháp sau:

- Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng:

+ Đi đôi với với việc tiếp tục duy trì quy mô, tốc độ, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học, cần tăng quy mô, tốc độ và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Nhân lực qua đào tạo nghề của nước ta hiện nay còn rất thấp (14%), cần phấn đấu nâng tỷ lệ lao động qua dạy nghề đạt 18,6% vào năm 2005 và 26% vào năm 2010.

+ Cơ cấu ngành nghề đào tạo phải đáp ứng và phù hợp sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.

+ Nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các hệ đào tạo gồm: dạy nghề, đại học, sau đại học.

- Hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lý, sử dụng nguồn nhân lực:

+ Cần có chính sách luân chuyển cán bộ, chính sách thu hút nhân tài, áp dụng chính sách nghĩa vụ lao động ở vùng sâu, vùng xa trong một thời gian nhất định đối với người lao động, nhằm điều chỉnh lại phân bố lao động hợp lý hơn.

+ Cải cách căn bản tiền lương để tiền lương thực sự là hàng hoá sức lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động, không kể họ làm việc ở khu vực quốc doanh hay ngoài quốc doanh.

+ Giảm việc thực hiện chế độ biên chế suốt đời, thực hiện phổ biến việc ký kết hợp đồng lao động đối với các loại lao động.

- Tăng cường quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo với công tác đào tạo.

2.4. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.

Tiến bộ khoa học - công nghệ là nội dung cơ bản của CNH, HĐH. Phải áp dụng các giải pháp chủ yếu sau để thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, quản lý và đời sống xã hội:

- Một mặt, phải phát huy vai trò của Nhà nước, mặt khác, cần đặc biệt coi trọng vai trò của doanh nghiệp với thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ.

Nhà nước đóng vai trò định hướng tiến bộ khoa học - công nghệ cho các ngành, chú trọng một số hướng công nghệ trọng điểm, mũi nhọn; tăng vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ và xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý đối với khoa học - công nghệ.

- Doanh nghiệp là khâu quyết định việc đổi mới công nghệ. Cần xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ nhu cầu đổi mới chủng loại, chất lượng sản phẩm, cũng như nhu cầu về tăng năng suất, hạ giá thành và căn cứ vào khả năng huy động vốn từ mọi nguồn, khả năng khai thác sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp để lựa chọn hình thức, mức độ đổi mới công nghệ thích hợp. Các doanh nghiệp cần nâng mức đầu tư cho khoa học - công nghệ và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư, phấn đấu để mức đầu tư có thể đạt 2-3% so với doanh thu.

- Huy động và sử dụng tốt năng lực và nguồn lực cán bộ khoa học - công nghệ của đất nước vào nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là nâng cao vai trò của các trường đại học.

- Phát triển công nghệ cao là khâu đột phá để đẩy nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ và CNH, HĐH nhanh, rút ngắn. Nhà nước ưu tiên đầu tư nhân tài vật lực và khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ cao, ví dụ công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới....

- Phát triển thị trường khoa học - công nghệ.

2.5. Tổ chức lại và phát triển hệ thống các khu công nghiệp tập trung và các khu công nghiệp vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp (KCNTT, KCNV&N, CCN).

KCNTT, KCNV&N, CNN là những trung tâm và đầu tàu thu hút và tạo động lực phát triển công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp trong giai đoạn tới. Chúng cần được kết nối với nhau, đảm bảo tính hệ thống trong phạm vi toàn quốc và địa phương, có quan hệ với nhau về kinh tế - kỹ thuật và hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển.

Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục rà soát và điều chỉnh lại các quy hoạch về phát triển các KCNTT, KCNV&N, CCN, hạn chế việc mở thêm các khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ việc hình thành, phát triển các CCN, các KCNV&N ở các tỉnh.

Đa dạng hoá cách thức gọi vốn, đầu tư vốn và xây dựng cơ sở hạ tầng các KCNTT, các KCNV&N, các CCN.

Trước mắt, cần xây dựng mô hình quản lý nhà nước và thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đối với KCNTT, KCNV&N, CCN.

2.6. Tiếp tục tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tăng cường quản lý khu vực.

Tổ chức lại hệ thống DNNN nhằm tạo ra một môi trường năng động, có hiệu quả, có tính cạnh tranh cao.

Các DNNN vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong thập kỷ tới, nhưng sẽ mất dần và sẽ mất hẳn sự độc quyền của DNNN trong một số lĩnh vực, tuy nhiên, vẫn còn độc quyền của Nhà nước. Số lượng các DNNN sẽ tiếp tục giảm.

Khu vực ngoài quốc doanh sẽ có vai trò ngày càng quan trọng. Để tiếp tục phát triển, Nhà nước cần:

- Hoàn thiện hệ thống quy định pháp lý, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các loại hình doanh nghiệp;

- Hỗ trợ khuyến khích các thành phần kinh tế về đào tạo, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như thông tin về thị trường, chuyển giao công nghệ.

2.7. Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển.

Hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển rất phong phú và đa dạng, bao gồm mọi lĩnh vực, từ dịch vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ nghiên cứu, phát triển, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực... đến dịch vụ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, cũng như dịch vụ xã hội khác.

- Cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý, thủ tục hành chính, mặt bằng kinh doanh và tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn...

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các cơ sở và chuyên gia cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phát triển, nhằm cung cấp các thông tin cơ bản, cần thiết cho khách hàng có nhu cầu.

- Khuyến khích phát triển các cơ sở cung cấp dịch vụ phát triển và hỗ trợ trực tiếp cho các cơ sở cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực:

+ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ và quản lý.

+ Tư vấn pháp lý và tư vấn kinh doanh.

+ Khuyếch trương và xúc tiến thương mại.

+ Đào tạo và bồi dưỡng nghề.

  • Tags: