Những nội dung chủ yếu của quy hoạch phát triển công nghiệp Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030

1. Định hướng các ngành công nghiệp: a) Ngành điện tử - công nghệ thông tin: Xây dựng ngành công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin trở thành ngành công nghiệp chủ lực để tạo cơ sở hỗ trợ cho các

Tiếp tục phát triển phương thức lắp ráp các thiết bị điện tử, tin học, tiếp nhận công nghệ và đáp ứng nhu cầu sản phẩm điện tử trong nước và tham gia xuất khẩu; đồng thời tăng cường liên kết với các tập đoàn điện tử, tin học lớn trên thế giới để tiếp nhận công nghệ hiện đại và tăng năng lực sản xuất linh kiện trong nước, kể cả những linh kiện điện tử chính như các chíp điện tử, bo mạch, màn hình; khẩn trương nâng cao tỷ lệ nội địa hoá các thiết bị điện tử – tin học. Tập trung nâng cao chất lượng, mở rộng thị phần các thiết bị điện, điện tử, dây dẫn và vật liệu cho ngành điện do Hà Nội sản xuất. Khuyến khích sản xuất các sản phẩm điện tử – tin học mang thương hiệu Hà Nội.

b) Ngành Cơ khí:

ưu tiên phát triển sản xuất các loại động cơ nhỏ, các sản phẩm điện cơ, cơ khí chính xác, dụng cụ học tập, dụng cụ thí nghiệm, các chi tiết máy hiện đại, các sản phẩm tiêu dùng cao cấp, máy móc, thiết bị văn phòng. Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế tạo khuân mẫu cung cấp cho nhu cầu sản xuất của Thủ đô, các địa phương trong nước và xuất khẩu.

Phát triển cơ khí chế tạo thiết bị đồng bộ, các thiết bị điện, cơ điện tử, tự động hoá phục vụ phát triển các ngành công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, dịch vụ và tiêu dùng, đáp ứng phần lớn yêu cầu của thị trường trong nước, từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới.

Chú trọng phát triển khâu nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới theo hướng gắn kết, hợp tác chặt chẽ giữa các Viện, trường với doanh nghiệp; gắn các chương trình nghiên cứu quốc gia với phát triển các sản phẩm trọng điểm. Từng bước hình thành hệ thống công nghiệp hỗ trợ đa dạng ở các tỉnh trong vùng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.

c) Ngành hoá chất, hoá dược và mỹ phẩm:

  Hà Nội là một thị trường lớn, đồng thời có một đội ngũ cán bộ có trình độ, có khả năng phát triển ngành công nghiệp dược và công nghiệp hoá mỹ phẩm. Do vậy, ưu tiên phát triển ngành hoá dược và hoá mỹ phẩm thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, đi ngay vào công nghệ hiện đại. Xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ nghiên cứu cơ bản cho công nghiệp hoá dược. Kết hợp tốt công nghệ sản xuất tiên tiến với hiện đại hoá sản xuất các sản phẩm đông dược.

Ngành sản xuất hoá chất cơ bản nói chung là ngành có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao, đồng thời là ngành tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vì vậy không phát triển các cơ sở sản xuất mới trên địa bàn Hà Nội. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tiến tới sản xuất một số loại hoá chất tinh khiết quy mô phòng thí nghiệm phục vụ cho bào chế thuốc, nghiên cứu và giảng dạy

Không đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất phân bón trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới. Khuyến khích xây dựng các tổ hợp chế biến rác kết hợp sản xuất phân hữu cơ sinh học tại các khu tập trung rác của Thành phố.

d) Ngành chế biến thực phẩm, đồ uống.

  Phát triển theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên địa bàn và trong vùng, đồng thời tăng nhanh sản lượng xuất khẩu.

Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất những sản phẩm có thương hiệu, có uy tín phục vụ nhu cầu ngày càng tăng cao của nhân dân Thủ đô và các tỉnh thành trong cả nước. Chú trọng phát triển các sản phẩm truyền thống nổi tiếng của Thủ đô phục vụ cho khách du lịch. Kết hợp với các tỉnh trong vùng Bắc Bộ để phát triển các vùng nguyên liệu và bố trí nhà máy chế biến phù hợp với quy hoạch vùng, tránh lãng phí, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.

e) Ngành dệt may, da giầy:

Phát triển các Trung tâm cung cấp dịch vụ, trung tâm nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang cao cấp, làm tổng đại lý. Ngành dệt may phát triển chủ yếu theo chiều sâu, hợp tác chặt chẽ với các tỉnh trong vùng để mở rộng, phát triển sản xuất. Định hướng sau năm 2010, ngành may không phát triển thêm các cơ sở may thông thường, định hướng dịch chuyển sang các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Hải Dương..., nơi có quy hoạch tập trung cho ngành dệt may. Với phân ngành dệt cần tập trung vào sản xuất sản phẩm cao cấp theo công nghệ mới, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường.

Đối với phân ngành da - giầy sẽ hướng vào 3 nhóm sản phẩm chính là giày thể thao, giày dép da và túi cặp. Tập trung đầu tư máy móc thiết bị chuyên dùng, công nghệ hiện đại, coi trọng thiết kế mẫu mã để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh được cả trong nước và thế giới, tiến tới thay thế hàng nhập khẩu.

Ngành dệt may - da giầy Hà Nội cần đẩy mạnh hợp tác liên kết với các tỉnh lân cận để phát huy thế mạnh về lao động, đất đai, giao thông của các địa phương; đồng thời chuyển giao máy móc thiết bị của Hà Nội về các vùng phụ cận.

f) Ngành vật liệu xây dựng, trang trí nội thất cao cấp:

Đầu tư ứng dụng kỹ thuật mới, tiến tiến vào sản xuất các loại vật liệu mới, vật liệu cao cấp, vật liệu tổng hợp phục vụ xây dựng và trang trí nội thất như: vật liệu nhẹ, tấm kết cấu 3D, sản phẩm ốp lát, gốm, sứ xây dựng; các loại vật liệu mới ứng dụng công nghệ nano như kính chống va đập, kính chống mờ.....

2. Các phương án phát triển công nghiệp:

Báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn đến 2030 đã đưa ra 03 PA tăng trưởng kinh tế – xã hội. Báo cáo đã chọn phương án 2 với các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội như sau:

Đây là phương án có tính đến hướng nâng dần vị trí đóng góp của Hà Nội vào GDP cả nước và phù hợp với khả năng phấn đấu của Thành phố; thực hiện vai trò đầu tàu trong nhiều lĩnh vực, kéo theo sự phát triển chung của các tỉnh, thành phố trong vùng Bắc Bộ và cả nước. Tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước từ 9% năm 2005 lên 10% năm 2010, 12% năm 2015, 14% năm 2020 và khoảng 18% năm 2030.

Theo phương án này nền kinh tế Hà Nội phát triển với tốc độ tương đối nhanh thể hiện sức tăng trưởng của Thành phố với những thuận lợi về vốn đầu tư, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế cao. GDP/người của Hà Nội năm 2010 đạt khoảng 2.550 USD, năm 2015 khoảng 4.330 USD và năm 2020 khoảng 7.480 USD.

Một phương án chiến lược phát triển phù hợp với Thủ đô Hà Nội phải là phương án có tính hiện thực và tích cực, để Hà Nội có thể đạt tới trình độ phát triển cao mà vẫn đảm bảo được khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư, đảm bảo giải quyết tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Căn cứ vào chủ trương đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với Hà Nội, phương án 2 là phương án hiện thực và có tính khả thi cao. Trong trường hợp xuất hiện những thời cơ và khả năng đột phá lớn có thể chuyển sang phương án 3 để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đây là phương án phát triển “nóng”, đặc biệt đối với Việt Nam khi vấn đề phát triển bền vững và giảm khoảng cách chênh lệch quá lớn giữa các vùng đang được đặt ra như một yêu cầu cấp bách.

Như vậy phương án 2 là phương án lựa chọn để xây dựng mục tiêu phát triển công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2006-2020, tầm nhìn 2030.

Theo PA này, các chỉ số cơ bản của Hà Nội được dự báo như sau:
  • Tags: