12 nhóm hàng từ Việt Nam vào Danh sách hàng hóa uy hiếp thị trường Đài Loan (Trung Quốc)

Trong Danh sách các nhóm mặt hàng nhập khẩu được coi là uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan - Trung Quốc năm 2022 do Tổng hội Công nghiệp toàn quốc Đài Loan - Trung Quốc (CNFI) công bố có 12 nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Đài Loan
Ảnh minh họa

Ngành thép có số lượng các báo cáo phản ánh lớn nhất

Tin từ Thương vụ Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc cho biết, Báo cáo thường niên điều tra hàng hóa nhập khẩu uy hiếp thị trường nội địa 2022 được Tổng hội Công nghiệp toàn quốc Đài Loan - Trung Quốc (CNFI) thực hiện thông qua kết quả cuả cuộc khảo sát về tình trạng đe dọa nhập khẩu của hàng hóa ở các nước, với các câu hỏi được gửi đến các Hiệp hội thành viên trực thuộc và các Hiệp hội thành viên sẽ gửi cho các nhà sản xuất thành viên để điền vào câu trả lời. Kết quả của cuộc khảo sát nhận được 117 báo cáo phản ánh, tăng 32% so với báo cáo phản ánh năm 2021. Đặc biệt trong số 117 báo cáo phản ánh có 103 báo cáo phản ánh về tình trạng hàng hóa nhập khẩu vào Đài Loan - Trung Quốc uy hiếp thị trường nội địa.

Trong 117 báo cáo phản hồi, các nhóm sản phẩm được đề cập đến nhiều nhất bao gồm: Nhóm sản phẩm gang thép, ô tô, sản phẩm luyện kim chiếm 34,2%; nhóm sản phẩm công nghiệp vật liệu xây dựng như xi măng, kính, sản phẩm khoáng sản từ đá thạch anh chiếm 32,5%; nhóm sản phẩm công nghiệp cao su hóa dầu như keo dán nhựa tổng hợp, nhựa nguyên liệu chiếm 12,8%.

Báo cáo của CNFI cho biết ngành thép là ngành có số lượng các báo cáo phản ánh lớn nhất, cũng là mặt hàng bị đe dọa nhiều nhất. Trong 228 mặt hàng nhập khẩu được cho là đe dọa tới sản xuất nội địa thì có 120 mặt hàng liên quan đến thép, chiếm 64,2%; tiếp theo là các sản phẩm vật liệu xây dựng như đá, xi măng, amiăng, mica hoặc các vật liệu tương tự, chiếm 5,9%; sau đó là mặt hàng thủy tinh và đồ thủy tinh, chiếm 5,4%.

Để lý giải cho việc thép là mặt hàng có lượng báo cáo phản ánh nhiều nhất cũng như là mặt hàng bị đe dọa nhiều nhất có một số nguyên nhân như: liên quan đến những thay đổi lớn trong trật tự thương mại tự do toàn cầu, cơ cấu cung cầu thay đổi, xung đột thương mại xoay quanh việc Hoa Kỳ áp dụng Điều 232 của Đạo luật Mở rộng thương mại; Canada và Châu Âu thực hiện các biện pháp phòng vệ đối với mặt hàng thép; các nước lần lượt thực hiện các biện pháp kiểm soát đối với mặt hàng thép; đại dịch Covid-19; tình trạng dư cung trong ngành công nghiệp thép toàn cầu...

Việt Nam đứng thứ 2 Danh sách hàng hóa nhập khẩu uy hiếp thị trường Đài Loan - Trung Quốc

Báo cáo chỉ chủ yếu đề cập tới hàng nhập khẩu từ các đối tác gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Ai Cập, Malaysia, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Bahrain, Hà Lan và Hoa Kỳ. Trong đó, Trung Quốc vẫn đứng đầu danh sách với 37,9% tổng số các báo cáo. Việt Nam đứng thứ 2 trong Danh sách với tổng cộng 15 báo cáo phản hồi hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan – Trung Quốc, chiếm 14,6% tổng số các báo cáo. Tiếp đến là hàng nhập khẩu từ các quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc.

Trong Danh sách nhóm các mặt hàng nhập khẩu được coi là uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan - Trung Quốc có 12 nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Cụ thể:

Mặt hàng Clanh ke (Clinker) dùng để sản xuất xi măng có mã CCC code: 25231090003 (Other cement clinkers). Ngoài Việt Nam, các đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này có Indonesia và Thái Lan.

Mặt hàng khăn/ giấy lau tẩm cồn có mã CCC code: 38089420001(Disinfectants products). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021 và nằm trong Danh sách hàng hóa nhập khẩu đe dọa thị trường, sản xuất bán hàng và lợi nhuận giảm trên 20%, lượng tồn kho lớn hơn 20%.

Mặt hàng Sợi bông đơn tự nhiên không chải kỹ (DTEX: 714,29 trở lên, NM không quá 14, NE không quá 8,27), có tỷ trọng bông từ 85% trở lên có mã CCC code 52051100108 (Cotton yarn, single, of uncombed fibres, unbleached (DTEX 714.29 or more, NM 14 or less, NE 8.27's or less), containing 85% or more by weight of cotton). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021.

Mặt hàng xơ sợi polyester khác, chủ yếu hoặc chỉ được trộn với sợi bông nhân tạo (thương nhân gọi là chỉ sợi trắng SPUN T/R) có mã CCC Code 55095100004 (Other yarn of polyester staple fibres, mixed mainly or solely with artificial staple fibres). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có In-đô-nê-xi-a. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021 và nằm trong Danh sách hàng hóa nhập khẩu đe dọa thị trường, sản xuất bán hàng và lợi nhuận giảm trên 20%, lượng tồn kho lớn hơn 20%.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng, được mạ hoặc tráng thiếc, có độ dày từ 0,5 mm trở lên có mã CCC Code 72101100009 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with tin, of a thickness of 0.5 mm or more). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng thiếc, có độ dày dưới 0,5 mm có mã CCC Code 72101200008 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with tin, of a thickness of less than 0.5 mm). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim (không lượn sóng) cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng kẽm, có độ dày dưới 0,5 mm có mã CCC Code 72104900318 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with zinc (not corrugated), of a thickness less than 0.5 mm). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc và Nhật Bản.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim (không lượn sóng) cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng kẽm, có độ dày từ 0,5mm trở lên nhưng nhỏ hơn 1,5mm với CCC Code 72104900327 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with zinc (not corrugated), of a thickness of 0.5 mm or more but less than 1.5 mm). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim (không lượn sóng) cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng kẽm, có độ dày từ 1,5 mm trở lên có mã CCC Code 72104900336 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with zinc (not corrugated), of a thickness of 1.5 mm or more). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan. Đây là mặt hàng nằm trong Danh sách hàng hóa nhập khẩu đe dọa thị trường, sản xuất bán hàng và lợi nhuận giảm trên 20%, lượng tồn kho lớn hơn 20%.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng ô-xít crôm hoặc hỗn hợp crôm và oxit crôm có mã CCC Code 72105000001 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, plated or coated with chromium oxides or with chromium and chromium oxides). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021.

Mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng từ thép cán nguội, được mạ hoặc tráng kẽm hoặc hợp kim kẽm có mã CCC Code 72123000102 (Flat-rolled products of iron or non-alloy steel, based on cold-rolled, otherwise plated or coated with zinc or zinc-alloy). Ngoài Việt Nam, đối tác khác cùng nằm trong Danh sách này còn có Trung Quốc và Nhật Bản.

Mặt hàng các loại thùng tráng thiếc khác, dung tích dưới 50 lít có mã CCC Code 73102910006 (Other tinned containers, of a capacity of less than 50l). Đây là mặt hàng mới bị thêm vào Danh sách so với năm 2021 và là mặt hàng duy nhất bị nêu tên chỉ nhập khẩu từ Việt Nam và nằm trong Danh sách hàng hóa nhập khẩu đe dọa thị trường, sản xuất bán hàng và lợi nhuận giảm trên 20%, lượng tồn kho lớn hơn 20%.

thép cuộn

Khuyến nghị của CNFI

Sau khi Báo cáo được công bố, CNFI sẽ khuyến nghị chính quyền Đài Loan - Trung Quốc đưa các mặt hàng vào hệ thống cảnh báo sớm với nhóm 7209, 7211, áp thuế chống bán phá giá và thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu thuộc nhóm 7212 và tiến hành biện pháp cấp giấy phép nhập khẩu, tức là các nhà sản xuất Đài Loan - Trung Quốc phải đồng ý mới được phê duyệt nhập khẩu với nhóm 7210. Đối với nhóm 73102910006, CNFI khuyến nghị chính quyền Đài Loan - Trung Quốc ngoài thực hiện các biện pháp cứu phòng vệ thương mại cần tăng cường kiểm tra nhãn mác xuất xứ, tăng cường kiểm tra theo đợt, giám sát nghiêm ngặt việc khai báo trị giá hải quan, đồng thời đưa ra vào hệ thống giám sát cảnh báo sớm.

Đối với mặt hàng clinker xi măng, Báo cáo của CNFI cho hay, các loại clinker xi măng (mã CCC 25231090003) nhập khẩu từ Thái Lan, Việt Nam và Indonesia đã bán giá thấp hơn mức 150-200 Đài tệ/ tấn so với các nhà sản xuất nội địa để chiếm lĩnh thị trường. Trong đó, năm 2019 lượng nhập khẩu từ Thái Lan là 345.278 tấn, thị phần là 2,9% và tăng lên lên mức 443.930 tấn vào năm 2021, với thị phần là 3,4%. Trong khi đó, lượng nhập khẩu từ Việt Nam năm 2019 là 1.450.070 tấn, thị phần 12,1% và năm 2021 lượng nhập khẩu giảm còn 594.082 tấn, thị phần 4,5% nhưng các doanh nghiệp Đài Loan - Trung Quốc vẫn bị ảnh hưởng bởi giá bán thấp.

Ngoài ra, việc nhập hàng rời từ 03 đối tác này cập cảng bốc dỡ lộ thiên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tăng chi phí xã hội. CNFI đề nghị chính quyền Đài Loan–Trung Quốc áp thuế chống bán phá giá đối với các nhà nhập khẩu cạnh tranh với giá thấp; yêu cầu các nhà nhập khẩu sử dụng tàu chở hàng rời đặc biệt để giảm ô nhiễm; tiến hành kiểm tra việc dỡ hàng phát thải bụi và loại bỏ thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn; tăng cường kiểm tra chất lượng, nhãn mác đối với xi măng nhập khẩu, tăng mức xử phạt đối với các sản phẩm không đạt chất lượng; đồng thời yêu cầu Cục Quản lý thuế kiểm tra nghiêm việc trốn thuế hàng hóa.

Đối với mặt hàng khác, nhà sản xuất khăn/giấy tẩm cồn (mã CCC 38089420001) của Đài Loan - Trung Quốc chỉ ra rằng các sản phẩm tương tự nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam đã đe dọa nghiêm trọng đến thị trường nội địa, nghi ngờ việc sử dụng cồn sử dụng chưa được cơ quan kiểm tra công chứng trong nước chứng nhận, sử dụng cồn công nghiệp với quan ngại về chất lượng có thể gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng. Các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam nghi ngờ có chất lượng kém, định hướng giá rẻ đã đe dọa sản phẩm chất lượng cao sản xuất trong nước. CNFI khuyến nghị cơ quan hải quan Đài Loan - Trung Quốc tăng cường kiểm tra mác xuất xứ, tăng cường kiểm tra theo từng lô nhập khẩu, hoặc cấm toàn bộ hàng nhập khẩu. Ngoài ra, khuyến nghị chính quyền Đài Loan - Trung Quốc yêu cầu các nhà nhập khẩu cần nộp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất khăn/giấy tẩm cồn tại nước sản xuất.

Đối với các hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, kết quả điều tra của CNFI cho thấy, 26,4% khuyến nghị sử dụng biện pháp áp thuế chống bán phá giá; 18,1% đề nghị thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại, 6,9% đề nghị tăng cường kiểm tra hải quan tại biên giới và dán nhãn xuất xứ, 18,1% đề nghị kiểm tra từng lô hàng, 12,5% đề nghị giám sát chặt chẽ việc khai báo trị giá hải quan, 1,4% đề nghị đưa vào hệ thống giám sát cảnh báo sớm.

Trên cơ sở thông tin từ Thương vụ Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, Cục Phòng vệ thương mại khuyến nghị Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu các sản phẩm như thép, clinker, sơ xợi và một số mặt hàng nêu trên rà soát lại các hoạt động sản xuất, xuất khẩu sang Đài Loan - Trung Quốc và theo dõi chặt chẽ các động thái của thị trường để kịp thời xây dựng phương án ứng phó trong trường hợp cần thiết.

Thanh Hà