Bộ trưởng Trần Tuấn Anh phát biểu tại Quốc hội về thủy điện

Tiếp tục chương trình thảo luận ở Hội trường về kinh tế-xã hội, chiều ngày 4/11, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh có bài phát biểu đề cập đến các vấn đề về phát triển thủy điện, vấn đề tác động đến môi trường thủy điện nhỏ, vừa và nhỏ cũng như những vấn đề liên quan đến phòng, chống thiên tai, bão lũ. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội một số vấn đề mà số nhóm vấn đề sau: 

Thứ nhất, liên quan đến thủy điện, hiện nay trên cả nước có 429 đập thủy điện và các công trình thủy điện ở các quy mô khác nhau với dung tích trữ nước khoảng 56 tỷ m3 và đóng công suất khoảng 20.000 MW, chiếm 37 % công suất phát của đất nước hiện nay. Đây là một nguồn năng lượng rất quan trọng phục vụ cho nhu cầu về năng lượng của đất nước, cho phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu đời sống của nhân dân.

Như video clip đã xem, chúng ta đang phụ thuộc rất nhiều vào năng lượng nhập khẩu và hiện nay năng lượng sơ cấp của chúng ta đã gần hết. Thủy điện là một nguồn năng lượng tái tạo rất quan trọng và có mức độ ô nhiễm ít, độ phát thải khí nhà kính gần như không có.

Chính vì vậy, việc quản lý và khai thác được nguồn năng lượng tái tạo này như thế nào để đảm bảo giảm thiểu những tác động đến môi trường và phát huy tối đa hiệu quả của nó là một nhiệm vụ rất quan trọng của đất nước.

Về vấn đề thứ hai, phát triển thủy điện có cả những mặt tích cực và có cả những mặt hạn chế,  tùy thuộc vào quản lý và các chính sách để xử lý các vấn đề liên quan. Trước hết, tôi khẳng định, nguồn điện vẫn đóng góp vào cơ cấu điện rất quan trọng của đất nước.

Thứ hai là giúp cho chúng ta phát triển các khu vực kinh tế xã hội của các địa phương cũng như tiếp tục đóng góp vào trong phát triển của hệ thống điện, năng lượng điện của hạ tầng điện của cả nước cũng như phục vụ cho cầu phát triển kinh tế xã hội, giảm thiểu tác động đến môi trường.

Thứ ba thủy điện tiếp tục bổ sung nguồn lực quan trọng cho chiến lược năng lượng quan trọng trong tương lai.

Cuối cùng trên thực tế, ngoài chức năng phát điện, các hồ chứa nước của các đập thủy điện còn có tác dụng  đóng góp vào việc tích nước và tùy thuộc vào công suất nó có thể cắt giảm lũ và điều tiết lũ cũng như phục vụ cho nhu cầu phát triển khác.

Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận những tác động tiêu cực do thủy điện, đặc biệt là những tác động đến môi trường đất, nước và khí hậu cũng như đời sống dân sinh.  Đây là những vấn đề tổng thể và tùy thuộc vào cách thức của con người trong khai thác những nguồn lực của thiên nhiên và nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Vì vậy, những câu chuyện tác động đến dòng chảy, đến cấu trúc địa chất trong khu vực của đất trong khu vực cũng như là đến các nguồn lợi thủy sản, đời sống của nhân dân là thực tế cũng chưa là thực tế.

Và đặc biệt trong giai đoạn trước kia, thì rất nhiều các dự án thủy điện chúng ta cũng có câu chuyện chiếm đất rừng tự nhiên và nó cũng gây ra những ảnh hưởng đến rừng đầu nguồn, chức năng của rừng trong phòng, chống lũ bão, giảm thiểu tác động đến môi trường.

Hồ chứa thủy điện Đăk Mi 4

 

Vì vậy, từ lâu, thủy điện đã được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội,  Chính phủ, đặc biệt là từ sau khi Nghị quyết 62 của Quốc hội ban hành vào cuối năm 2013 và sau đó là Nghị quyết 11 của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết số 62 của Quốc hội, công tác về phát triển thủy điện nói chung cũng như quản lý  an toàn của đập, hồ thủy điện và sự vận hành của các công trình thủy điện đã được đảm bảo ở mức mới.

Cụ thể trong giai đoạn này, hàng năm chúng tôi đều có các cuộc kiểm tra, giám sát và báo cáo đầy đủ theo tinh thần chỉ đạo của Quốc hội để báo cáo Quốc hội về:  Thứ nhất là độ an toàn của đập, hồ thủy điện.

Thứ 2,  là sự vận hành của hệ thống thủy điện và đặc biệt là trong việc tham gia phòng, chống lụt, bão và thực hiện phòng, chống thiên tai tại địa phương. Thứ ba, vấn đề phổ cập trong các bộ, ngành và để tiếp tục thực hiện các chức năng quản lý trong phân cấp về địa phương.

Đồng thời, thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, đặc biệt là của Thủ tướng Chính phủ,  Ban Bí thư về việc kiểm soát chặt chẽ phát triển thủy điện. Từ năm 2016, thực thi nhiệm vụ này, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành đưa chỉ tiêu là tuyệt đối không bổ sung bất kỳ một dự án thủy điện nào cho dù là nhỏ hay lớn nếu sử dụng đến các diện tích đất rừng tự nhiên.

Trên thực tế, từ năm 2016 đến nay trong số các dự án thủy điện hoàn toàn không có một dự án thủy điện nào sử dụng đất rừng tự nhiên và diện tích chiếm dụng đất  trên các dự án được bổ sung quy hoạch tổ chức triển khai trên thực tế đã giảm.

Thực tế, Thông tư 43 của Bộ Công Thương quy định, chiếm dụng đất không vượt quá 10 ha cho 1MW điện. Nhưng trên thực tế trong giai đoạn này,  việc chiếm dụng đất của các loại đất, trong đó có cả đất sản xuất nông nghiệp cũng như đất rừng trồng và đất rừng sản xuất, chỉ có 1,9 ha/1MW.

Điều đó chứng tỏ chúng ta đã thực thi một chính sách một cách rất chặt chẽ và nghiêm túc, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Quốc hội ở Nghị quyết 62.

Thứ 3 là vấn đề liên quan đế chỉ đạo của Quốc hội trong việc xem xét đánh giá hiệu quả của các dự án điện, nhất là các thủy điện nhỏ và vừa, trong giai đoạn này, chúng tôi đã phối hợp với các bộ ngành đưa ra khỏi quy hoạch của các thủy điện 472 dự án.

Đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch này 8 dự án thủy điện bậc thang ở các lưu vực sông. Bên cạnh đó là 213 điểm tiềm năng cho phát triển thủy điện cũng được đưa ra khỏi quy hoạch của thủy điện để đảm bảo yêu cầu mới của phát triển. Đó là những việc mà chúng ta đã làm rất nghiêm túc trong thời gian vừa qua.

Thứ 4, liên quan đến vận hành của các đập thủy điện và an toàn hồ đập, chúng ta đã có hàng loạt công cụ pháp lý, từ Luật Xây dựng, Luật bảo vệ tài nguyên nước, Luật môi trường, Luật điện lực và Luật phòng chống thiên tai bão lũ để điều chỉnh các hoạt động của thủy điện gắn với bảo vệ, phòng ngừa thiên tai cũng như bảo vệ an toàn đập, hồ thủy điện.

Cụ thể, là Nghị định 114 mà Chính phủ vừa thông qua, các Bộ Ngành cũng đều đã có những thông tư hướng dẫn để đảm bảo an toàn của đập, hồ thủy điện cũng như hồ thủy lợi, đã có sự phân cấp và xác định rất rõ trách nhiệm cũng như các quy trình để đảm bảo yếu tố này.

Bên cạnh đó là vấn đề liên quan đến vận hành của các đập, hồ thủy điện trong các phương án phòng, chống lụt, bão để giảm thiểu những tác động đến tiêu cực đến đời sống của nhân dân cũng như hoạt động kinh tế xã hội của địa phương, chúng ta đều có hàng loạt các văn bản pháp quy hướng dẫn.

Ví dụ như Thông tư 47 của Bộ Tài nguyên Môi trường hướng dẫn và yêu cầu các chủ đập phối hợp với chính quyền địa phương phải thiết lập các hệ thống giám sát, quan trắc tự động về khí tượng thủy văn và giám sát hệ thống vận hành của các nhà máy thủy điện; căn cứ trên lượng mưa về đập cũng như lượng xả từ đập xuống hạ du, với nguyên tắc để đảm bảo lượng nước xả  xuống hạ du không bao giờ vượt quá lượng nước về hồ.

Đồng thời, có những phương án phòng, chống lũ bão tại địa phương, căn cứ trên ý kiến chỉ đạo của Ban Phòng, chống bão tại địa phương.

Trong đó bản đồ của các vùng hạ du là một nội dung quan trọng theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp để yêu cầu các chủ đập, các chủ dự án đều phải có kế hoạch để báo cáo địa phương trong kế hoạch điều tiết về quy trình đơn hồ và quy trình liên hồ, đảm bảo việc xả lũ, đề phòng, chống lụt, bão ở địa phương cũng như đảm bảo an toàn tính mạng cho đời sống của nhân dân và gắn với phòng chống lụt bão.

thủy điện

 

Về vấn đề khác có liên quan đến câu chuyện cần phải đánh giá lại hiệu quả và cũng như là những nguy cơ đặt ra cho việc hạ xả lũ, gây thiệt hại cho nhân dân cũng như là các yếu tố khác tác động môi trường. Chúng tôi thống nhất rất nhiều các ý kiến của các đại biểu đã nêu, nhưng trong bối cảnh các công cụ, các cơ sở pháp lý của chúng ta tương đối đầy đủ.

Tuy nhiên không tránh khỏi tại một số địa phương thực thi chưa nghiêm, ví dụ như tại thủy điện Hố Hô năm 2016 ở đầu nhiệm kỳ đã để xảy ra câu chuyện xả lũ vượt quá mức gây ra ngập lụt hạ du. Các cơ quan chức năng đã xử lý rất kiên quyết.

Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một nội dung mà dư luận nhân dân và xã hội đang rất quan tâm, đó là câu chuyện thủy điện ảnh hưởng như thế nào đến ngập lụt cũng như là những nguy cơ sạt lở đất và đặc biệt như đại biểu Trần Thị Dung hôm nay có đề cập đến vấn đề về động đất sông Tranh.

Chúng tôi được tham gia cùng đoàn công tác của Thủ tướng Chính phủ hai lần đi thăm, làm việc tại Quảng Bình, chống lũ lụt và bão cũng như chuyến công tác mới đây tại Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Qua khảo sát thực tế theo báo cáo của các địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn và của cơ quan chức năng thì trước mắt chúng ta phải khẳng định rằng, những câu chuyện sạt lở đất gây ra những tổn hại rất nghiêm trọng về người và của chúng ta tại Quảng Trị, Huế, Quảng Nam đều gắn chặt với yếu tố là tính dị thường, cực đoan của thời tiết.

Ví dụ, theo con số báo cáo của cơ quan chuyên môn và chức năng, lượng mưa tại Quảng Bình, Quảng Trị cũng như của Quảng Nam, Quảng Ngãi vào trong những thời điểm này là con số rất lớn. Tại Trà Mi, cơn bão số 9 đã tạo ra tác động đến cấu tạo địa chất cũng như các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng của địa phương và đã gây ra sụt lở rất nghiêm trọng.

Chúng ta phải xác định câu chuyện để đối phó với ứng phó thiên tai, bão lũ là một câu chuyện mới và chúng ta phải đặt công tác nghiên cứu khoa học và đưa ra những cảnh báo một cách cụ thể hơn nữa.

Đặc biệt là bản đồ của các khu vực sụt lún cũng như các nguy cơ biến đổi cực đoan của khí hậu là những vấn đề rất lớn mà chúng ta phải dự báo cho công tác phòng, chống thiên tai cũng như về phát triển kinh tế xã hội.

Còn các vấn đề liên quan đến cụ thể đến thủy điện và tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cũng như phòng, chống thiên tai và giảm bớt những thiệt hại, Chúng tôi xin tiếp thu ý kiến của đại biểu quốc hội.

thủy diện

 

Tới đây, chúng tôi sẽ làm việc với các địa phương, các bộ, ngành để nghiên cứu cụ thể, đánh giá về những mặt còn hạn chế và những mặt tích cực để từ đó có tham mưu chính sách với Chính phủ để tiếp tục siết chặt quản lý trong phát triển, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực nếu có, đồng thời tiếp tục khai thác tốt nguồn tài nguyên của đất nước.