Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng tăng 2,5 lần so với mức tăng cùng kỳ 2020

Sản xuất công nghiệp trong 8 tháng đầu năm chịu ảnh hưởng nặng nề khi dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, nhưng chỉ số sản xuất công nghiệp có mức tăng gấp 2,5 lần so với mức tăng cùng kỳ năm trước.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2021 giảm 4,2% so với tháng trước và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 8 tháng năm 2021, IIP ước tính tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn 2,5 lần mức  tăng 2,2% của cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 7% (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,7%), đóng góp 5,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm;

Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,2%, làm giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước:

Sản xuất kim loại tăng 30,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 23,1%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 9,2%; dệt và sản xuất giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 8,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 7,8%;

Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 7,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,6%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 6%; sản xuất trang phục tăng 5,9%.

Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 13,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 7,6%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3,6%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 1,7%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 1%; khai thác than cứng và than non giảm 0,9%.

Chỉ số sản xuất tháng 8/2021 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19 như: Bến Tre giảm 60,1%; Đồng Tháp giảm 59,1%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 49,2%; Vĩnh Long giảm 41,5%; Tây Ninh giảm 36,9%; Sóc Trăng giảm 31,4%; Hậu Giang giảm 29,5%; Khánh Hòa giảm 28,6%; Tiền Giang giảm 27%;

Cần Thơ giảm 25,9%; Kiên Giang giảm 25,6%; Long An giảm 20,9%; Đà Nẵng giảm 17,1%; An Giang và Quảng Nam cùng giảm 15,5%; Đồng Nai giảm 13,3%; Bình Dương giảm 12,6%; Hà Nội giảm 6,4%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3,7%.

Một số địa phương có chỉ số IIP tăng như: Hải Phòng tăng 21,2%; Hà Nam tăng 18,5%; Hải Dương tăng 17,8%; Quảng Ninh tăng 17,5%; Thái Bình tăng 15,8%; Nghệ An tăng 14,9%; Ninh Thuận và Nam Định cùng tăng 14,2%; Quảng Trị tăng 13,7%; Bắc Giang tăng 13,1%; Kon Tum tăng 12,5%; Quảng Ngãi tăng 11,4%.

Chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19: Đồng Tháp giảm 10,9% do ngành dệt giảm 66,1%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 47,4%; sản xuất đồ uống giảm 29%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 11,8%;

Khánh Hòa giảm 7,9% do sản xuất mô tô, xe máy giảm 24,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 19,4%; sản xuất đồ uống giảm 16,7%; sản xuất trang phục giảm 2,3%;

Bến Tre giảm 6,9% do ngành dệt giảm 19,6%; sản xuất sản chế biến thực phẩm giảm 12,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 12,5%; sản xuất trang phục giảm 10,3%;

Thành phố Hồ Chí Minh giảm 6,6% do sản xuất trang phục giảm 18,5%; sản xuất đồ uống giảm 17%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 14,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 13,3%; sản xuất sản phẩm tử kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) giảm 12,7%;

Trà Vinh giảm 4% do sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 31,2%; sản xuất trang phục giảm 13,2%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 7,7%. (6) Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3% do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 4,4%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 8 tháng năm 2021 tăng so cao với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 48,3%; linh kiện điện thoại tăng 43,9%; ô tô tăng 27,9%; sắt, thép thô tăng 13,7%; giày, dép da tăng 12,5%; phân hỗn hợp NPK tăng 12,3%; sữa bột tăng 11,1%; khí hóa lỏng LPG tăng 10,6%; điện thoại di động tăng 10%; thức ăn cho gia súc tăng 9,2%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 6,7%.

Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Tivi các loại giảm 27,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 14,3%; đường kính giảm 9,5%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6,2%; bột ngọt giảm 5,7%; thủy hải sản chế biến giảm 5,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 5%.

Bùi Chu