Hai vấn đề trọng yếu, mang tính chiến lược cần giải quyết của TKV

Để đảm bảo được sản lượng than cung cấp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cần tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu, mang tính chiến lược

Theo ông Lê Minh Chuẩn - Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV): Để đảm bảo được sản lượng than cung cấp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, nhất là đáp ứng nhu cầu than cho phát điện thì Tập đoàn cần phải tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu và mang tính chiến lược dài hạn, đó là đảm bảo sản lượng than khai thác trong nước và tăng cường hội nhập và cân đối định hướng nhập khẩu than phù hợp với năng lực sản xuất trong nước và thích ứng linh hoạt với nhu cầu của thị trường.

Một là: Giải pháp đảm bảo sản lượng than khai thác trong nước:

Việc khai thác than trong nước thực hiện theo định hướng và các giải pháp như sau:

Đẩy mạnh đầu tư thăm dò một cách hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn và nâng cao mức độ tin cậy của công tác thăm dò nhằm thực hiện mục tiêu nắm chắc tài nguyên, đảm bảo đủ trữ lượng than tin cậy cho việc khai thác theo QH, nhất là tại Bể than Đông Bắc.

Tập trung phát triển các mỏ hầm lò sản lượng lớn theo tiêu chí “Mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ sản lượng cao”. Liên thông các mỏ hầm lò có cùng điều kiện khoáng sàng thành các mỏ có công suất lớn trên 2,0 triệu tấn/năm. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới công nghệ khai thác theo hướng tiên tiến hiện đại gắn liền với cơ giới hóa, tự động hóa và tin học hóa; thực hiện đồng bộ các giải pháp với mục tiêu đảm bảo an toàn, tăng năng suất lao động và giảm chi phí.

Phát triển mở rộng các mỏ lộ thiên hiện có theo hướng nâng cao hệ số bóc giới hạn, phù hợp với điều kiện kỹ thuật và giá bán than; nâng cao tối đa năng lực khai thác phù hợp với quy hoạch đổ thải, vận tải, thoát nước và bảo vệ cảnh quan môi trường. Tiếp tục đổi mới đồng bộ và hiện đại hóa thiết bị dây chuyền khai thác, vận tải theo hướng đưa vào sử dụng các thiết bị cơ động công suất lớn, các hệ thống vận tải liên tục phù hợp với điều kiện và quy mô của từng mỏ.

Khai thác tận thu tối đa nguồn tài nguyên than, bao gồm cả phần tài nguyên tại các khu vực trụ bảo vệ các công trình hầm lò, phần tài nguyên còn lại sau khi đã khai thác hầm lò...

Tăng cường băng tải hóa trong vận tải than tiến tới chấm dứt vận tải ô tô trong hệ thống vận tải ngoài tại tất cả các vùng than để giảm thiểu phát thải bụi, khí thải, tiếng ồn, nâng cao năng suất, giảm tai nạn và chi phí.

Tăng cường đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách, biện pháp thích đáng thu hút công nhân hầm lò, đồng thời đảm bảo an toàn lao động với mục tiêu “tai nạn bằng không”.

Tăng cường hợp lý hóa sản xuất và công tác quản trị chi phí để giảm tiêu hao vật tư, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí và hạ giá thành than.

Tăng cường sự hợp tác chặt chẽ, bền vững, hiệu quả giữa các doanh nghiệp SXKD than, các đơn vị phụ trợ và các hộ sử dụng than, nhất là các NMNĐ than để đảm bảo quá trình sản xuất - tiêu thụ - sử dụng than diễn ra liên tục, ổn định.

Có giải pháp huy động tối đa các nguồn lực của xã hội tham gia đầu tư để góp phần thúc đẩy tiến độ thi công và nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư khai thác than. Đồng thời tăng cường hội nhập và mở rộng hợp tác với các đối tác có tiềm lực mạnh ở nước ngoài.

Chủ động bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển của ngành than thân thiện với môi trường, với mục tiêu đưa ngành than trở thành ngành kinh tế xanh, tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua các giải pháp đồng bộ, phù hợp.

Hai là: Cân đối định hướng nhập khẩu than phù hợp với năng lực sản xuất trong nước và thích ứng linh hoạt với nhu cầu của thị trường:

Mục tiêu lớn nhất của nhập khẩu than cho sản xuất điện là đảm bảo được nguồn cung ổn định trong dài hạn với giá cạnh tranh trên cơ sở. Đa dạng hoá nguồn cung; Đầu tư chiếm lĩnh thị trường đảm bảo thị phần chắc chắn, ổn định; Áp dụng phương thức mua và định giá than phù hợp.

Tăng cường thương thảo, hợp tác với các đối tác ở In-đô-nê-xi-a, Úc, Nga, U-krai-na, Nam Phi… để nhập khẩu than cho Việt Nam đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu trong nước.

Về hệ thống hạ tầng logistics phục vụ xuất, nhập khẩu than: Để phù hợp yêu cầu phát triển trong thời gian tới cần thiết phải tiếp tục đầu tư xây dựng các cảng, bến bãi rót, pha trộn và vận chuyển than tại các vùng: Đông Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng và các vùng khác.