TÓM TẮT:

Theo xu thế hội nhập và phát triển chung của toàn xã hội, hơn lúc nào hết, sự liên kết vùng Tây Nguyên trong kêu gọi đầu tư, xúc tiến thương mại và nhiều lĩnh vực khác trong nội vùng, các vùng lân cận là rất cần thiết. Đây cũng là một xu hướng tất yếu cho sự phát triển của vùng Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung.

Từ khóa: Liên kết vùng Tây Nguyên, liên kết nội vùng, liên kết kinh tế, thương mại, dịch vụ.

1. Liên kết là nhu cầu tất yếu

Liên kết vùng Tây Nguyên đã và đang trở thành xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình hội nhập. Đây là vấn đề không chỉ đặt ra với vùng Tây Nguyên mà còn cho nhiều vùng kinh tế khác trên cả nước. Qua đó, giúp nâng cao hiệu quả trong đầu tư, tránh sự lãng phí, dàn trải, trùng lắp và cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương.

Mỗi một vùng dù lớn hay nhỏ, ít hay nhiều, có một số điểm tương đồng nổi trội hơn so với các vùng khác; sự khác biệt này tạo nên những điểm mạnh và yếu riêng của từng vùng. Khi được hình thành, liên kết không những bù đắp được sự thiếu hụt về nguồn lực, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng mà còn làm gia tăng lợi ích nhờ vào hiệu quả kinh tế theo quy mô. Vì vậy, để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, các vùng và từng địa phương tất yếu đều có nhu cầu liên kết để phát triển.

Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, thiên tai xảy ra nhiều nơi; tốc độ tăng trưởng suy giảm, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng; nhu cầu an ninh phúc lợi xã hội, cải thiện môi trường sống và bảo đảm quốc phòng - an ninh ngày càng cao trong khi nguồn lực còn hạn hẹp. Bên cạnh dó, những khó khăn của khu vực miền núi, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của vùng; nhiệm vụ tái cơ cấu kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải có sự kết hợp nhiều yếu tố…

Trong khi các cơ chế chính sách đặc thù tạo động lực phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên đã được các địa phương khai thác triệt để, việc tìm kiếm phương pháp mới thay thế hữu hiệu nhằm tạo động lực và thu hút đầu tư cho sự phát triển đang trở thành nhu cầu cấp bách và liên kết trên quy mô vùng là sự lựa chọn tối ưu và hết sức cần thiết.

Để phát huy, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của vùng và đầu tư, sử dụng vốn hiệu quả hơn, Trung ương đã ban hành nhiều chính sách đặc thù phát triển vùng Tây Nguyên nhằm huy động các nguồn lực cho đầu tư kết cấu hạ tầng, tăng khả năng liên kết với các khu vực và trung tâm đô thị lớn. Trong đó, liên kết phát triển được xem là biện pháp hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tế của vùng Tây Nguyên. Vì vậy, chỉ có liên kết thì Tây Nguyên mới tạo được sức mạnh tổng hợp, phát huy hết tiềm năng, nâng cao được năng lực cạnh tranh và có lợi thế trong thu hút đầu tư.

2. Khu vực nhiều tiềm năng

Tây Nguyên có vị trí địa lý chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của cả nước; có tiềm năng to lớn về nhiều mặt, đặc biệt là trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, năng lượng, khoáng sản, du lịch sinh thái, văn hóa…; là điểm giao nhau giữa khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng duyên hải miền Trung.

Tây Nguyên sở hữu một mạng lưới sông suối, hồ nước dày đặc và nhiều thác, ghềnh nên có tiềm năng rất lớn về thủy điện. Bên cạnh đó, nơi đây còn có nguồn tài nguyên rừng phong phú (độ che phủ đạt trên 51%) cùng hệ động thực vật đa dạng với nhiều loài quý hiếm. Đây là điều kiện rất thuận lợi để phát triển nghề rừng và ngành công nghiệp chế biến gỗ, bột giấy… Ngoài ra, khí hậu nhiệt đới gió mùa và đất đai là lợi thế đặc biệt của Tây Nguyên, trong đó, nổi bật là đất đỏ bazan (được xếp vào loại đất tốt nhất) với khoảng 2 triệu ha và hàng chục vạn ha đất đen, đất phù sa rất phù hợp cho trồng nhiều loại cây như: hồ tiêu, cà phê, cao su, điều, chè, hoa xuất khẩu… là những sản phẩm chủ lực của vùng.

Bên cạnh đó, tài nguyên khoáng sản ở Tây Nguyên cũng khá đa dạng. Một số loại đã được điều tra có trữ lượng lớn như: than bùn, than nâu, sét cao lanh, puzolan và bauxite. Nhóm khoáng sản kim loại có giá trị như: sắt, wonfram, antinomy, chì, kẽm, vàng; nhóm đá quý như: saphia, xircon, corindon, thạch anh hồng và thạch anh tinh thể… khá nhiều và phân bố đều ở các tỉnh.

Tây Nguyên còn là vùng đất giàu tiềm năng để phát triển du lịch. Đây là khu vực tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống (54 dân tộc anh em) nên thích hợp với du lịch văn hóa dân tộc, với các di tích lịch sử có giá trị cùng nhiều nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên như: Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Chu Ru… Vùng đất này vẫn lưu giữ nhiều pho sử thi truyền miệng, các loại nhạc cụ dân tộc, các lễ hội độc đáo đậm chất dân gian. Đặc biệt, “không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu phi vật thể của nhân loại. Tây Nguyên cũng là địa danh được nhiều người biết đến thông qua điểm du lịch sinh thái như Biển Hồ (Gia Lai), Vườn Quốc gia Yok Don, Chư Yang Sin (Đắk Lắk), Chư Mom Ray (Kon Tum)… Nhiều tiểu vùng có khí hậu ôn hòa mát mẻ, thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng, điển hình là thành phố du lịch Đà Lạt (Lâm Đồng) và Khu du lịch sinh thái Măng Đen (Kon Tum).

3. Liên kết nội vùng Tây Nguyên

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách mang tính đặc thù nhằm khai thác lợi thế sẵn có của vùng Tây Nguyên và từng bước cải thiện môi trường đầu tư, khơi dậy tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của vùng đất này.

Hơn thế nữa, Tây Nguyên còn là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hóa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc các dân tộc của khu vực với những lễ hội truyền thống, kiến trúc đặc thù và đặc biệt là Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Với đặc điểm địa hình đa dạng, khí hậu thuận lợi, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, đây cũng là nơi có tiềm năng to lớn về du lịch nghỉ dưỡng, văn hóa cũng như khám phá trải nghiệm. Về chủ trương, những năm qua, Tây Nguyên đã nhận được sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam; đã có nhiều cơ chế, chính sách đặc thù được ban hành nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào khu vực này. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông đường bộ và hàng không từng bước được đầu tư, đến nay đã hình thành mạng lưới giao thông thuận lợi giữa các tỉnh. Nhờ vậy, những năm qua Tây Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân.

Sản xuất nông, lâm, nghiệp ở Tây Nguyên đã từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác được lợi thế về đất đai và hình thành những vùng sản xuất tập trung, chuyên canh cây công nghiệp, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa khá lớn và có lợ thế cạnh tranh trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.

Sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng và chuyển dần sang khai thác các thế mạnh của vùng về thủy điện, khai khoáng, chế biến nông sản và sản xuất hàng tiêu dùng. Đặc biệt là sự phát triển của các nhà máy chế biến tinh bột sắn, cà phê, cao su, gỗ ván, vật liệu xây dựng… Bên cạnh đó là sự phát triển của các loại hình dịch vụ, nhất là thương mại, vận tải, viễn thông, ngân hàng, phát triển khá nhanh và thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng. Kết cấu hạ tầng đang phát triển khá nhanh, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của vùng, giao lưu với các tỉnh Đông Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, Duyên hải miền Trung, và vùng tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.

Thời gian qua, các tỉnh Tây Nguyên đã khai thác, phát huy lợi thế của từng địa phương, tích cực chủ động trong công tác vận động, kêu gọi xúc tiến đầu tư và có nhiều nỗ lực trong cải cách hành chính, tạo môi trường pháp lý thông thoáng để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước.

Thu hút đầu tư vào Tây Nguyên đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Năm 2009 lần đầu tiên các tỉnh Tây Nguyên đã liên kết cùng tổ chức Diễn đàn Xúc tiến đầu tư Tây Nguyên lần thứ nhất tại thành phố Buôn Ma Thuột (tháng 9/2009) và đã mang lại kết quả đáng kể. Theo thống kê của các địa phương, từ năm 2009 đến 2012, tổng vốn đăng ký đầu tư của vùng đạt bình quân trên 30.000 tỷ đồng/năm, tăng cao so với các năm trước đó (bình quân 16.500 tỷ đồng/năm).

Năm 2013, các tỉnh Tây Nguyên đã liên kết cùng tổ chức Hội nghị Xúc tiến đầu tư Tây Nguyên lần thứ 2 tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai (tháng 4/2013). Tại đây, lãnh đạo ủy ban các tỉnh Tây Nguyên đã trao giấy chứng nhận đầu tư cho 13 dự án của 11 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký là 16.149,09 tỷ đồng và 115 triệu USD; hầu hết các dự án đầu tư vào những lĩnh vực chế biến cà phê, cao su, dịch vụ và du lịch…

Tây Nguyên cũng là một trong những vùng kinh tế còn khó khăn, Nhà nước đã và đang thực hiện nhiều chính sách nhằm hỗ trợ phát triển và dân sinh. Trong đó, chương trình an sinh xã hội đã có 14 ngân hàng, các tập đoàn công ty, doanh nghiệp cam kết hỗ trợ 248,39 tỷ đồng để xóa nhà tạm cho hộ nghèo và xây dựng trường học ở vùng sâu, xa…

Vốn ngân sách Trung ương đã đầu tư qua các bộ, ngành Trung ương, đầu tư qua địa phương trong vùng Tây Nguyên thời gian qua đã được quan tâm đúng mức, ưu tiên bố trí gồm vốn ngân sách, tín dụng, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, huy động các nguồn vốn hợp pháp của địa phương đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội cho vùng.

Tuy nhiên, so với các vùng khác trong cả nước, kết quả thu hút đầu tư vào Tây Nguyên còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Số lượng, quy mô các dự án đầu tư còn nhỏ, công nghệ lạc hậu và tập trung chủ yếu ở khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém và chưa đồng bộ.

Hội nghị Xúc tiến đầu tư Tây Nguyên lần thứ 4 (sẽ được tổ chức vào ngày 11/3/2017) tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lawsk, là dịp để các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; các Công ty FDI; các viện trường, hiệp hội KHKT; các học giả chuyên gia kinh tế; các Tổng công ty, Tập đoàn; các Tổ chức quốc tế; 5 tỉnh Tây Nguyên và các địa phương… cùng xây dựng một cơ chế hợp tác, liên kết trong xúc tiến đầu tư. Hợp tác này dựa trên sự bình đẳng, các bên cùng có lợi, trên cơ sở khai thác và phát huy tiềm năng và thế mạnh, đặc thù của từng địa phương và toàn vùng để cùng phát triển.

Các địa phương cũng đã nhìn rõ mục tiêu của sự liên kết này là tăng cường hiệu quả xúc tiến đầu tư mang tính chất hợp tác, nhằm chia sẻ thông tin, qua đó, xây dựng cơ chế giao lưu, liên kết, phối hợp các tỉnh Tây Nguyên trong hoạt động xúc tiến đầu tư.

Sự liên kết giữa các vùng Tây Nguyên đã bắt đầu nhận được quan tâm, chú ý và cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, tạo nên một thương hiệu vùng giúp Tây Nguyên bứt phá trong thời gian tới.

4. Liên kết vùng Tây Nguyên với các vùng kinh tế khác

Vùng Tây Nguyên là một trong sáu vùng kinh tế lớn của nước ta. Ở vào vị trí trung tâm của miền núi Nam Đông Dương, có những hành lang tự nhiên thông với Nam Lào, Đông Bắc Campuchia; có hệ thống đường giao thông liên hoàn nối các tỉnh duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ; có các cửa khẩu quốc tế, quốc gia trên tuyến hành lang Đông - Tây và không quá xa các cảng biển nước sâu như: Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hội.

Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, các tỉnh Tây Nguyên đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ với tư cách là địa phương tham gia mà còn là đối tác chủ yếu trong hợp tác của vùng tam giác này.

Tam giác kinh tế bao gồm lãnh thổ của 13 tỉnh có đường biên giới hoặc có liên quan đến khu vực biên giới chung giữa ba nước là: Mondulkiri, Rattanakiri và Stung Treng, Kraitie (Campuchia), Attapư, Saravan và Sê Kông, Chămpasăc (Lào), Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk và Đắk Nông, Bình Phước (Việt Nam).

Tổng diện tích là 144,3000 km2, chiếm 19,3% diện tích ba nước và dân số hơn 6,5 triệu người, chiếm 6,1% dân số ba nước. 5 tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam có diện tích và mật độ dân số cao nhất. Về diện tích tự nhiên chiếm 40,3%, dân số chiếm 82%, mật độ dân số 72 người/km2 gấp hơn 10 lần mật độ dân số của bốn tỉnh Đông bắc Campuchia và 4,3 lần mật độ dân số của bốn tỉnh Nam Lào. Đây là khu vực giàu tiềm năng về đất đai, khoáng sản, thủy điện, rừng.

Đây là khu vực địa chiến lược quan trọng của ba nước cũng như mỗi nước. Chính vị trí chiến lược vô cùng quan trọng ấy đã thôi thúc chính phủ ba nước quyết tâm xây dựng khu vực tam giác này thành khu vực phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa, đồng bộ. Bước đầu về hợp tác kinh tế xuyên biên giới đã đạt được những kết quả: Gia tăng hợp tác thương mại, đầu tư giữa ba nước; hợp tác trong phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, phát triển cơ sở hạ tầng trong phát triển giáo dục, đào tạo, Y tế; xây dựng mạng lưới an sinh xã hội, hợp tác giữa các bên trong bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững.

Mặt khác, sự liên kết giữa Tây Nguyên và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và tiểu vùng sông Mê Kông đã làm thay đổi một cách cơ bản chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này. Sự liên kết giữa các khu vực của tiểu vùng sông Mê Kông với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung qua hệ thống hành lang thương mại Đông - Tây, trong đó có đường 24 và đường 19 đi qua Tây Nguyên nối liền tiểu vùng sông Mê Kông với cảng biển nước sâu Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hội có vai trò chiến lược hết sức to lớn. Các tiền đề để đưa Tây Nguyên tiến theo con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập với khu vực duyên hải miền Trung và tiểu vùng sông Mê Kông đã xuất hiện, đã hình thành các cửa khẩu quốc tế tại Tây Nguyên. Bên cạnh đó, là các khu vực thương mại tự do để trao đổi hàng hóa của Tây Nguyên với các khu vực tiểu vùng sông Mê Kông. Vì vậy, cần thúc đẩy hơn nữa tiến trình hình thành và phát triển này, cùng với việc triển khai các chương trình hợp tác của vùng tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, trong đó Tây Nguyên có vai trò trọng yếu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Liên kết kinh tế trong phát triển vùng Tây Nguyên vấn đề và giải pháp, PGS.TS. Nguyễn Danh Sơn, Khoa Phát triển bền vững, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

2. Báo cáo liên kết vùng, Tỉnh Kon Tum.

3. Liên kết phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên, ThS. KTS Vũ Hồng Sơn, KS. Bùi Văn Phương, Viện Quy hoạch Xây dựng Phát triển nông thôn - Viện Quy hoạch đô thị nông thôn quốc gia - Bộ Xây dựng.

THE DEMAND AND NECESSITY OF ENHANCING REGIONAL

LINKAGES OF THE CENTRAL HIGHLANDS

MAI MANH TOAN

The Steering Committee for the Highlands Region

ABSTRACT:

During integration trend and development of society, the task of enhancing links between the Central Highlands and promoting trade, investments and other fields become more urgent. Regional linkages of the Central Highlands and linkages between the Central Highlands and other regions play essential role in the growth of the Central Highlands in particular and Vietnam in general.

Keywords: Regional linkage of the Central Highlands, inner-regional linkage, economic linkage, trading, services.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 02 tháng 02/2017 tại đây