Thông điệp từ những cơn sốt vàng

Thời tiết đã bước vào cuối Hạ, chớm Thu, song trên thị trường vàng vẫn nóng bỏng, gây bao thảng thốt và những buồn, vui khác nhau cho bao thân phận. Người cười, kẻ khóc, song những thông điệp mà cơn s
Giá vàng trong nước ngày càng mang tính toàn cầu
Từ hơn 4 thập kỷ nay thế giới không còn chế độ bản vị vàng nữa, tức tiền giấy không được bảo đảm bằng vàng và càng không thể trực tiếp quy đổi ra vàng tại các ngân hàng trung ương theo tỷ lệ do nhà nước quy định. Những đồng tiền chủ chốt trên thế giới ngày càng “nhìn nhau” mà định tỷ giá trong cùng tư thế chủ động giảm giá đồng bản tệ nhằm bảo đảm tối đa sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước mình. Xu hướng ưa dùng các gói kích cầu, cũng như tình trạng nợ công và thâm hụt ngân sách các cấp Chính phủ. Sự đỏng đảnh của thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán toàn cầu càng làm cho tỷ giá thêm bất ổn, các hoạt động đầu tư chứa nhiều rủi ro hơn… Tất cả những yếu tố đó khiến vàng càng trở thành “hầm trú ẩn’ bảo đảm an toàn tài chính cho cả cấp vĩ mô, lẫn vi mô được ưa chuộng trên toàn thế giới, cả hiện tại, cũng như tương lai. 

Trong thời kỳ vàng vẫn tại vị là thước đo giá trị và phương tiện cất trữ quốc tế, giá vàng, vì vậy, ngày càng nhậy cảm, phản ánh những động thái toàn cầu và cũng có sức lan tỏa toàn cầu trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa. Chỉ sự căng thẳng trong xử lý nợ công của Tây ban Nha xa xôi, hay những kỳ kèo trong điều kiện thương lượng nâng trần nợ công của Mỹ, và sau đó là việc đánh tụt hạng tín nhiệm trái phiếu chính phủ của một hãng xếp hạng tín nhiệm tư nhân độc lập Mỹ, cũng đủ tạo ra làn sóng thần đè bẹp thị trường chứng khoán quốc tế và nâng đẩy giá vàng thế giới liên tiếp lập những kỷ lục thế kỷ mới chưa từng có. 

Một nền kinh tế yếu với chính sách đồng tiền yếu vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của cuộc chiến giá vàng toàn cầu. Đồng thời, giá vàng trong nước ngày càng phản ánh giá vàng thế giới. Người ta không thể “mũ ni che tai”, đóng cửa thị trường vàng trong nước với thị trường vàng thế giới hoặc can thiệp hành chính thô bạo, chủ quan vào dòng chảy thị trường toàn cầu này, nếu không muốn gánh chịu những hệ quả cay đắng và tổn phí đắt đỏ nhất. 

Sự phản ánh đầy đủ, nhanh chóng và trực tiếp giá vàng thế giới vào giá vàng trong nước là điều kiện và thước đo sự hoàn thiện của cơ chế thị trường, cũng như là cách thức để giảm thiểu những tổn thất phi thị trường trong quản lý kinh tế theo nguyên tắc thị trường. 

Dấu hiệu điển hình của hiện tượng “làm giá” trên thị trường vàng
Hiếm có sự cào bằng giá cả vàng giữa các thị trường, kể cả khi kinh doanh vàng theo mạng điện tử, do những chi phí trực tiếp gắn với các thao tác kỹ thuật, phí quản lý và các khoản chi phí vận chuyển, phân phối, bảo quản vàng vật chất…
 
Sự chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới thường trở thành động lực kích hoạt hoạt hoặc dập tắt các động lực đầu tư, cũng như làm bùng lên các hoạt động đầu cơ, nhân bội những hành vi bột phát và tâm lý đám đông. Quy mô và tầm ảnh hưởng của chúng có thể vượt tầm kiểm soát và gây hệ lụy to lớn không chỉ cho nhà đầu tư, mà còn cho sự ổn định chung của nền kinh tế và hiệu quả của chính sách quản lý của Nhà nước. 

Theo quan sát thị trường, sự chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước hiện tại khoảng dưới 15 USD/lượng vàng (khoảng 200-300 ngàn đồng) là mức hợp lý cho những chi phí nêu trên, và do đó không tạo ra những cơn sốt vàng hay các hoạt động buôn lậu, đầu cơ trong giả định có sự liên thông trực tiếp thị trường trong và ngoài nước, tức không có sự cấm đoán xuât hay nhập khẩu vàng nào từ phía cơ quan chức năng Nhà nước. 

Nếu giá vàng biến thiên chóng mặt nhiều lần hơn và với mức vượt xa động thái chung của vàng thế giới; Nếu sự chệnh lệch giá vàng trong nước với nước ngoài này vượt xa khoảng cách 15 USD nêu trên; Và nếu có sự giãn cách lớn giữa giá niêm yết mua và bán của doanh nghiệp kinh doanh vàng là 3 dấu hiệu điển hình đồng nghĩa với hiện tượng thị trường vàng trong nước đang bị làm giá, bị lũng đoạn và đầu cơ có tổ chức, với những hệ quả luôn là người dân và Nhà nước là người bị thiệt lớn nhất và cuối cùng. 

“Đọc vị” và ngăn chặn hiện tượng “làm giá” và lũng đoạn thị trường vàng trong nước không quá khó; cái khó là việc vượt qua lợi ích nhóm và lợi ích đặc quyền, cũng như giảm thiểu sự lạm dụng quyền lực cho những mục tiêu ích kỷ của ai đó có liên quan… 

(Từ tháng 4- 9/8/2011, giá vàng SJC đã tăng gần 10 triệu đồng một lượng. Vào tuần đầu tháng 4/2011, giá vàng thế giới vẫn quanh quẩn dưới 1.480 USD một ounce, và vàng SJC của Việt Nam ngấp nghé 37 triệu đồng một lượng. Giá vàng thế giới chỉ sau hai ngày đã tăng hơn 130 USD, chạm kỷ lục gần 1.780 USD trong ngày 9/8/2011, trong khi giá vàng trong nước cùng thời điểm so sánh đã tăng vọt gần 5 triệu đồng/ lượng, đạt tới 46,2 triệu đồng/lượng, tạo giãn cách với giá thế giới tới 2 triệu đồng/lượng, gần như lặp lại kịch bản của tháng 11/2009 và tháng 10/2010. Và cũng chỉ 24 giờ sau khi Ngân hàng Trung ương cho phép nhập khẩu 5 tấn vàng, giá trong nước đã dịu bớt 1.8 triệu đồng và giãn cách mua vào-bán ra của doanh nghiệp kinh doanh vàng đã thu hẹp từ 900.000đ xuống dưới 200.000đ; Trong khi trên thị trường quốc tế, giá giao ngay đạt 1.764 USD một ounce).


Diễn biến giá vàng trong nước 4-9/8/2011


Cần bảo đảm sự liên thông trực tiếp thị trường vàng trong và ngoài nước
Chậm trễ trong cấp hạn ngạch hoặc kéo dài kiểm soát nhập khẩu vàng không chỉ là biểu hiện phản ứng chính sách thiếu nhạy bén của cơ quan chức năng trước những biến động nhanh chóng thị trường, mà nó có thể đơn thuần là do định kiến chạy theo thành tích giảm nhập siêu bất chấp hiệu quả tổng thể. Người ta có thể khuyến khích xuất vàng (dù lợi nhuận thấp) và hạn chế nhập vàng (dù thiệt hại chung, nhất là từ biến động giá cả do tâm lý và các cơn sốt bất thường là rất lớn, khó đo lường được) để giảm nhập siêu thuần túy như là mục đích tự thân hay bị chi phối trực tiếp bởi lợi ích cục bộ, ngắn hạn “ăn theo”, gắn với sự lựa chọn chính sách này. Nghịch lý là ở chỗ, trong khi nhập khẩu vàng bị hạn chế bởi cơ chế hạn ngạch khắt khe hình thức, thì cửa xuất khẩu vàng lại gần như bỏ ngỏ. Vàng nguyên liệu bị cấm xuất khẩu, nhưng doanh nghiệp vẫn có thể xuất nữ trang trá hình và hưởng thuế suất 0-10%. Và rõ ràng, cửa nhập vàng bị khống chế đã bị vô hiệu hóa, như cảnh “Đười ươi giữ ống” và thậm chí “vô tình hay cố ý” tiếp tay cho buôn lậu và đầu cơ… 

Cần phân biệt vàng với các hàng hóa thông thường khác. Vàng là hàng hóa dặc biệt, bởi vàng vừa là hàng hóa- thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng trang sức và nguyên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất –kỹ thuật, vàng vừa có chức năng của tiền tệ-dù chưa đầy đủ do, ngoài chức năng thước đo giá trị và cất trữ kể trên, nó bị hạn chế các chức năng lưu thông và thanh toán trên phạm vi quốc gia, cũng như quốc tế. Vì vậy, sự đủ đầy của vàng và sự cân đối cung-cầu về vàng trên thị trường trong nước có tác dụng đặc biệt quan trọng bảo đảm sự ổn định và vận hành trơn tru các quan hệ hàng-tiền trong đời sống kinh tế-xã hội. Điều này cũng có nghĩa là bất kỳ hành vi cấm đoán nào có tính chủ quan đều có thể làm ách tắc sự vận hành này, do đó gây ra những hệ quả nhiều mặt nguy hại cho quốc gia và mỗi doanh nghiệp, người dân. Mặt khác, cũng vì vàng là tiền, nên cần hạn chế gắt gao các hoạt động đầu cơ vàng, kể cả tín dụng bằng vàng và các đòn bẩy tài chính liên quan đến vàng với mục tiêu đầu cơ- điều không chỉ mang lại rủi ro cao cho ngân hàng, người vay, mà còn cho cả chính sách tiền tệ của Chính phủ. 


Tóm lại, cần đối xử thận trọng và khách quan với vàng với tư cách là tài sản tài chính quốc gia và quốc tế; sự liên thông dòng chảy vàng giữa thị trường trong nước với thị trường vàng thế giới là điều kiện hàng đầu để bảo đảm cân đối cung-cầu, tạo ra niềm tin về vàng, tạo ra ổn định tâm lý về vàng, ổn định và giữ giá vàng trong nước chỉ còn biến động cùng chiều theo giá thị trường thế giới khách quan, từ đó góp phần ổn định chung thị trường tài chính nói riêng, đời sống kinh tế-xã hội nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa hiên nay…/.